Bản án 11/2020/HS-PT ngày 16/01/2020 về cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 11/2020/HS-PT NGÀY 16/01/2020 VỀ CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 14 và 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 234/2019/TLPT-HS ngày 16 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Tấn V. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 362/2019/HS-ST ngày 05 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Họ và tên bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Tấn V, sinh năm 1983 tại tỉnh Tiền Giang; thường trú Ấp M, xã L, huyện C, tỉnh T; nghề nghiệp Không; trình độ học vấn 02/12; giới tính Nam; quốc tịch Việt Nam, dân tộc Kinh; tôn giáo Không; con ông Nguyễn Tấn T, sinh năm 1965 v b Lê Thị Ngọc S, sinh năm 1965; vợ tên H Thị Bé G, sinh năm 1983; có 01 người con sinh năm 2004; tiền án: Ngày 17/9/2007 bị Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, buộc nộp phạt 5.000.000 đồng sung công quỹ nh nước theo Bản án số 159/2007/HSST.  ngày 01/8/2010 chấp hành xong hình phạt tù tại trại giam C, tỉnh Tây Ninh; tiền sự ngày 25/12/2017 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đến  ngày 20/10/2018 chấp hành xong; bị cáo bị bắt tạm giam từ  ngày 10/3/2019 cho đến nay; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị hại v 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án v diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Nguyễn Thị P thuê nhà nguyên căn tại số A, khu phố T phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương của ông Nguyễn Văn L, sống cùng chồng và 02 người con. Còn Nguyễn Tấn V thuê chòi lá của ông Nguyễn Văn L trước nhà bà P để ở cùng mẹ và con gái.

Khoảng đầu tháng 3 năm 2019, Nguyễn Tấn V thường sử dụng ma túy đá. Khoảng 15 giờ  ngày 10/3/2019, người dân xung quanh nghe V chửi ai đó và đập phá đồ đạc trong nhà, nên trình báo Công an phường Đ. Công an phường Đ đến nhà bà P mời V về phường làm việc, nhưng V không đi.

Khi thấy bà P mở cửa cho công an vào, V bực tức vì nghi ngờ bà Pgọi điện cho công an đến bắt V nên V cầm dao tự chế vào nhà bà P. Bà P hoảng sợ dắt con là Nguyễn Khánh H và Nguyễn Khánh H vào phòng ngủ khóa trái cửa lại. V đi vào nhà và đến cửa phòng ngủ, dùng dao đập bể cửa kính, luồn tay vào trong mở cửa đi vào phòng ngủ. Khi V đập cửa, bà P dắt 02 con vào nhà vệ sinh trong phòng ngủ khóa trái cửa lại để trốn. Biết bà P ở trong nhà vệ sinh nên V nói: “Mày ra đây, không tao giết mày”, V dùng chân đạp vào cửa, bà P dùng tay phải chặn cửa lại, V dùng dao tự chế đâm một nhát xuyên qua cửa nhựa nhà vệ sinh trúng tay phải bà P gây thương tích.

Tiếp đó, V đạp cửa xông vào nắm tay bà P kéo ra giường ngủ. V đe dọa buộc bà P phải cởi quần ra. Bà P sợ hãi cởi quần ra, lợi dụng lúc V không để ý, bà P chạy ra phía sau nhà, mặc quần vào và chạy ra ngoài truy hô nói mọi người cứu 02 con. Người dân xông vào dẫn cháu H1 và cháu H2 ra ngoài. V cầm dao tự chế bỏ chạy, bị người dân bắt giữ giao cho Công an phường Đ và lập biên bản người có hành vi phạm tội quả tang.

Tiến hành khám xét nơi ở của V, thu giữ 01 gói nilon chứa tinh thể màu trắng. V khai làma túy đá, mua của đối tượng không rõ nhân thân lai lịch tại khu vực cầu vượt ngã tư T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ Kết luận giám định số 226/MT-PC09 ngày 15/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,2768 gam.

Căn cứ Kết luận giám định thương tích số 218/TgT/2019 ngày 15/3/2019 của Trung tâm Giám định Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai, kết luận: Vết thương cẳng tay phải kích thước (6,5x0,2)cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 3%. Vật gây thương tích là vật sắc.

Đối với hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản là cửa nhựa nhà vệ sinh và tấm kính gắn cửa không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên bị cáo bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Đ ra Quyết định xử phạt hành chính số tiền 3.500.000 đồng.

Đối với việc bà P khai là V đe dọa bà P, cởi quần bà P và yêu cầu bà P giao cấu với V. Mặc dù có ADN của V trên quần lót của bà P nhưng V chỉ thừa nhận là dọa cho bà P sợ không có ý định hiếp dâm bà P, do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên chưa có cơ sở xử lý.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 362/2019/HS-STàngày 05 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã D đã quyết định Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn V phạm “Tội cố ý gây thương tích” và “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; Điều 55; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 v điểm h, đ khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội cố ý gây thương tích.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tổng hợp hình phạt Buộc bị cáo Nguyễn Tấn V phải chấp hành hình phạt chung của hai tội danh l 04 (bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ  ngày 10/3/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí v quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 05/11/2019, bị cáo V có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến Tội danh, điều luật m Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo l có căn cứ, đúng người, đúng tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại Tòa án cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ n o mới. Mức hình phạt m Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo l phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử kiến nghị cơ quan điều tra làm rõ hành vi hiếp dâm của bị cáo V đối với bị hại P.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận to n bộ hành vi phạm tội và giữ nguyên kháng cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận địnhànhư sau

[1]. Đơn kháng cáo của bị cáo được thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của bị cáo thống nhất với nội dung vụ án đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở kết luận Khoảng 15 giờ ngày 10/3/2019 tại nhà số C, khu phố T, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Tấn V đã có hành vi dùng dao tự chế đâm vào tay bà Nguyễn Thị P gây thương tích 3%. Ngoài ra, khi khám xét khẩn cấp nơi ở của V, thu giữ 01 gói nilon chứa 0,2768 gam, loại chất Methamphetamine, đây là số ma túy do V cất giữ để sử dụng.

[3]. Hành vi của bị cáo V là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của cá nhân được pháp luật bảo vệ, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi cố ý gây thương tích cho người khác v tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo có đủ năng lực chịu tráchànhiệm hình sự về tội phạm m bị cáo đã thực hiện. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội v đúng pháp luật.

[4]. Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy Tại Tòa án cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách  nhiệm hình sự nào mới. Đối với tình tiết tăng nặng “phạm tội vì động cơ đê hèn”, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là chưa đúng quy định của pháp luật.

Bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xét thấy Bị cáo phạm nhiều tội, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên mức hình phạt m Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo l không nặng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, không có cơ sở giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Kháng cáo của bị cáo là không có cơ sở chấp nhận.

Ngoài ra, bị hại khai bị cáo yêu cầu bị hại cởi quần áo để thực hiện hành vi quan hệ tình dục nhưng bị cáo không thừa nhận v thực tế bị hại cũng xác định bị cáo chưa thực hiện hành vi hiếp dâm đối với bị hại. Do đó, cấp sơ thẩm không xử lý hành vi hiếp dâm đối với bị cáo l phù hợp.

[5]. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử kiến nghị xử lý hành vi hiếp dâm đối với bị cáo l không phù hợp.

[6]. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ  ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7]. Án phí hình sự phúc thẩm Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý v sử dụng án phí v lệ phí Tòa án: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 v Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn V. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 362/2019/HS-STàngày 05 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương:

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; Điều 55; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 v điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp hình phạt Buộc bị cáo Nguyễn Tấn V phải chấp hành hình phạt chung của hai tội danh l 04 (bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ  ngày 10/3/2019.

2. Án phí hình sự phúc thẩm Bị cáo Nguyễn Tấn V phải nộp số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ  ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

355
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/HS-PT ngày 16/01/2020 về cố ý gây thương tích

Số hiệu:11/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về