TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HOÀ, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 11/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 358/2019/TLST-HÀNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2020/QĐXX- ST ngày 20 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh ngày tháng năm 1969; Địa chỉ: Xóm Đ, thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh B- Có mặt;
- Bị đơn: Chị Đào Thị T, sinh năm 1970; Địa chỉ: Xóm Đ, thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh B- Có mặt;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn ngày 13/8/2019, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn (anh Nguyễn Văn Đ) trình bày: Anh và chị Đào Thị T cưới nhau có tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tháng 10/1994 tại UBND xã H, Hiệp Hòa còn ngày cụ thể anh không nhớ. Sau khi cưới anh chuyển về bên ngoại sinh sống. Tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường, nhưng sau đó đã phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm dẫn đến vợ chồng thường hay cãi vã nhau. Đặc biệt từ năm 2015 trở lại đây vợ chồng ngày càng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mâu thuẫn ngày càng nhiều mặc dù anh đã cố gắng nhẫn nhịn và nhờ gia đình bên vợ phân giải nhưng hai vợ chồng vẫn luôn bất hòa. Anh càng nhẫn nhịn thì chị T lại càng tỏ thái độ bất cần và vô lý. Do mâu thuẫn căng thẳng nên năm 2017 anh đã ra UBND xã H đề nghị làm thủ tục ly hôn cho anh, được động viên nên anh lại thôi; đến năm 2018 anh lại làm đơn xin ly hôn và gửi đến Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, lần này cũng được anh em bạn bè và Tòa án động viện hòa giải nên anh lại rút đơn xin ly hôn. Tuy nhiên, tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được nên từ tháng 02/2019 anh đã chuyển ra khỏi nH, vợ chồng chính thức sống ly thân cho đến nay, cắt đứt mọi quan hệ tình cảm, không còn quan tâm gì đến nhau. Mâu thuẫn vợ chồng cũng đã được hai bên gia đình, anh chị em bạn bè động viên hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng không thành. Nay anh xác định không còn tình cảm gì với chị T nữa, vì vậy anh làm đơn xin ly hôn chị T, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Đào Thị T.
- Về con chung: Anh xác định vợ chồng có 03 con chung là: cháu Nguyễn Hồng N, sinh ngày 11/5/1996; cháu Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 15/4/2002 và cháu Nguyễn Thanh T, sinh ngày 06/10/2008, hiện nay cháu N đã trưởng thành và đã đi làm, cháu H đã đủ 18 tuổi, đang học lớp 12, cháu T đang học lớp 6, cả cháu H và cháu T đang ở cùng chị T; anh chuyển ra ngoài ở nhưng vẫn lo việc học tập của các cháu, các cháu vẫn phát triển bình thường. Ly hôn, tại Tòa án anh đề nghị để anh được nuôi cháu H, chị T nuôi cháu T, nay cháu H đã 18 tuổi nên không có ý kiến gì. Về cấp dưỡng nuôi con chị T yêu cầu anh phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật là 750.000đ/1 tháng anh nhất trí.
- Về tài sản chung, công sức, công nợ, ruộng đất và các quan hệ khác: Anh tự nguyện để lại phần tài sản nh được sở hữu và sử dụng cho chị T và các con được sở hữu và sử dụng, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn (chị Đào Thị T) trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Đ cưới nhau có tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã H ngày 24/9/1994.
Sau khi cưới chị vẫn sinh sống tại nH và đất của bố mẹ đẻ còn anh Đ dạy học ở huyện Sơn Động, được hơn 1 năm thì chị xin chuyển cho anh Đ về dạy học tại xã H. Đến năm 2008 do vợ chồng sinh con thứ 3 nên anh Đ chuyển sang xã L dạy học. Vợ chồng sinh sống tại thôn Đ, xã H từ khi kết hôn cho đến nay, tình cảm vợ chồng vẫn bình thường, hạnh phúc. Đến tháng 02/2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là chị có xem được tin nhắn ở điện thoại của anh Đ nhắn tin thể hiện tình cảm với một chị phụ nữ, sau này chị biết họ tên là Nguyễn Thị Ngọc H ở xã L, dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Đến ngày 01/3/2019 anh Đ đã tự chuyển ra ngoài ở, chị đã rất nhiều lần xuống khuyên bảo anh Đ về nhưng anh Đ vẫn không về ở cùng chị. Mâu thuẫn vợ chồng cũng đã được hai bên gia đình, anh chị em bạn bè động viên hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng anh Đ vẫn không nghe. Nay chị xác định vẫn còn tình cảm với anh Đ, còn anh Đ nói không còn tình cảm gì với chị nữa là quyền của anh Đ. Vì vậy, anh Đ làm đơn xin ly hôn chị Không đồng ý. Mặt khác, hiện nay các con chung của vợ chồng vẫn chưa trưởng thành, nếu vợ chồng ly hôn thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập và phát triển của các con, đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Hơn nữa, anh Đ có đơn xin ly hôn là có động cơ không trong sáng do anh Đ có quan hệ ngoại tình với chị Nguyễn Thị Ngọc H, hiện đang ở xã L. Lý do chị xác định anh Đ có quan hệ ngoại tình với chị H là do khoảng 19 giờ 30 tối ngày 28/10/2018 (âm lịch) chị đi xuống trường tiểu học Lnơi anh Đ đang dạy học và đang ở khu tập thể ở đây, chị đã nhìn thấy anh Đ ra mở cổng cho chị H đi xe máy vào, khi gặp chị H thì chị H đã tránh không muốn gặp chị, chị mời vào uống nước thì chị H xin phép đi chỗ khác. Ngoài ra chị còn có một đoạn tin nhắn giữa anh Đ và chị H trên facebook thể hiện tình cảm giữa hai người. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
- Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 03 con chung là: Nguyễn Hồng N, sinh ngày 11/5/1996; Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 15/4/2002 và cháu Nguyễn Thanh T, sinh ngày 06/10/2008, hiện nay cháu N đã trưởng thành và đã đi làm, cháu H đang học lớp 12, cháu T đang học lớp 6, cả cháu H và cháu T đang ở cùng chị, các cháu vẫn phát triển bình thường. Trường hợp phải ly hôn ly hôn thì việc nuôi con chị tôn trọng theo nguyện vọng của các cháu là muốn ở với bố hay mẹ là tùy ý các cháu, chị cũng không muốn các cháu phải chia rẽ nhau. Đối với cháu N đã trưởng thành nên chị không có đề nghị gì. Về cấp dưỡng nuôi con, trường hợp chị nuôi cả 02 con chung của vợ chồng thì chị yêu cầu anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị theo quy định của pháp luật là mức ½ tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định (750.000đ) đối với 1 con chung.
Về tài sản chung, công sức, công nợ, ruộng đất và các quan hệ khác: Tại phiên tòa anh Đ tự nguyện để lại toàn bộ tài sản cho chị và các con toàn quyền sở hữu và sử dụng, không yêu cầu Tòa án giải quyết chị đồng ý và không có ý kiến gì.
Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến và xác định về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án cơ bản đúng quy định của pháp luật.
Về đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Điều 51, Điều 55, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Xử: Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Đ được ly hôn chị Đào Thị T.
Về con chung: Giao cho chị Đào Thị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thanh T, sinh ngày 06/10/2008. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Văn Đ phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị T hàng tháng, mức cấp dưỡng là 750.000đ/1 tháng, tính từ tháng 5/2020 trở đi cho đến khi con chung của vợ chồng đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về án phí: Anh Nguyễn Văn Đ phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0000392 ngày 16/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa. Anh Nguyễn Văn Đ còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Căn cứ đơn khởi kiện đề ngày 13/8/2019 của anh Nguyễn Văn Đ đây xác định là quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ tranh chấp:
[2].1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Đ và chị Đào Thị T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, được xác định là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.
[2].2. Xét yêu cầu về việc xin ly hôn của anh Đ thấy rằng: Qua chứng cứ do các bên xuất trình, lời khai của người làm chứng được biết: Vợ chồng anh Đ, chị T từ khi kết hôn có thời gian chung sống hạnh phúc trong một thời gian thì tình cảm vợ chồng đã không duy trì phát triển được, mâu thuẫn phát sinh bắt đầu xảy ra từ những năm 1996- 1998 xuất phát từ việc hai vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm, khi đó anh Đ đã chuyển ra ở khu tập thể của trường tiểu học xã H một thời gian, được đồng nghiệp và bạn bè động viên thì anh Đ mới về sống cùng chị T. Năm 2016- 2017 anh Đ có đến UBND xã H đề nghị cho làm thủ tục để xin ly hôn chị T, được động viên nên anh Đ không làm đơn xin ly hôn chị T nữa. Năm 2018 anh Đ lại làm đơn xin ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, anh Đ tiếp tục được động viên, hòa giải nên xin rút đơn xin ly hôn chị T một lần nữa. Qua trao đổi, địa phương xác định mâu thuẫn giữa anh Đ và chị T đã được địa phương, anh em, bạn bè động viên hòa giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn xảy ra. Đến tháng 02/2019 do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, anh Đ lại chuyển ra khỏi nH và ở tại khu tập thể của trường tiểu học số 2 xã Ltừ đó cho đến nay. Chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Đ và chị T đã phát triển trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị T xác định anh Đ có đơn xin ly hôn là do động cơ không trong sáng do chị T cho rằng anh Đ có quan hệ ngoại tình với chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1977, địa chỉ tại thôn Sơn Quả 2, xã L, Hiệp Hòa và cung cấp cho Tòa án đoạn tin nhắn qua facebook giữa anh Đ và chị H cũng như chị T xác định đã gặp chị H đi xe máy vào trường tiểu học xã Lgặp anh Đ vào buổi tối ngày 28/10/2018 (âm lịch), ngoài ra chị T không có tài liệu chứng cứ nào khác. Qua lời khai thì anh Đ và chị H đều thừa nhận đoạn tin nhắn do chị T cung cấp cho Tòa án là của anh Đ và chị H nhắn tin cho nhau, nhưng chỉ nhắn tin theo góc độ bạn bè bình thường, buổi tối ngày chị T gặp chị H vào gặp anh Đ là do chị H mang thuốc cho anh Đ chứ không có việc gì khác. Xác minh tại trường tiểu học số 2 xã Lvà UBND xã H đều xác định không có dư luận hay căn cứ gì thể hiện anh Đ có quan hệ ngoại tình với chị H. Hội đồng xét xử xét thấy, các tài liệu chứng cứ do chị T xuất trình cho Tòa án đã nêu ở trên không đủ căn cứ xác định anh Đ có quan hệ ngoại tình với chị H như chị T trình bày. Vì vậy, cần áp dụng điều 55 của Luật hôn nhân gia đình để giải quyết cho anh Nguyễn Văn Đ được ly hôn chị Đào Thị T là phù hợp, cho nên yêu cầu xin ly hôn của anh Đ cần được chấp nhận.
[2].3. Xét yêu cầu về việc nuôi con chung của hai bên thấy rằng: Anh Đ và chị T đều xác định vợ chồng có 03 con chung là: Nguyễn Hồng N, sinh ngày 11/5/1996; Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 15/4/2002 và cháu Nguyễn Thanh T, sinh ngày 06/10/2008, hiện nay cháu N đã đi làm, hai cháu H và T đang ở cùng chị T, các cháu vẫn phát triển bình thường. Ly hôn, anh Đ và chị T đều xác định cháu N hiện đã trưởng thành nên không có đề nghị gì, đối với cháu H và cháu T, tại Tòa án anh Đ đề nghị được nuôi cháu H, chị T được nuôi cháu T; chị T đề nghị việc ai nuôi con là theo nguyện vọng của các cháu. Hội đồng xét xử xét thấy, đến nay cháu N và cháu H đều đã đủ 18 tuổi trở lên do đó không cần đặt ra việc giao cho bố hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với cháu T hiện nay đang ở cùng chị T và phát triển bình thường. Để đảm bảo sự ổn định, tránh sự xáo trộn trong cuộc sống hàng ngày, cần giao cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng cháu T là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân gia đình. Cho nên đề nghị được nuôi con chung của chị T được chấp nhận. Anh Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
[2].4. Về việc cấp dưỡng nuôi con: Tại Tòa án cũng như tại phiên tòa, chị T yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị T theo quy định của pháp luật. Xét là có căn cứ cần được chấp nhận, theo quy định của pháp luật thì mức cấp dưỡng nuôi con hàng tháng được xác định là ½ mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, hiện nay là 1.490.000đ/1 tháng. Vì vậy, anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng cùng chị T, mức cấp dưỡng là 750.000đ/1 tháng, tính từ tháng 5/2020 trở đi cho đến khi con chung của vợ chồng đủ 18 tuổi.
[2].5. Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác, công sức và các quan hệ khác: Anh Đ và chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết cho nên không xem xét giải quyết trong vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 51, Điều 55, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Xử: Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Đ được ly hôn chị Đào Thị T.
Về con chung: Giao cho chị Đào Thị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thanh T, sinh ngày 06/10/2008.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Văn Đ phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị T hàng tháng, mức cấp dưỡng là 750.000đ/1 tháng, tính từ tháng 5/2020 trở đi cho đến khi con chung của vợ chồng đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về án phí: Anh Nguyễn Văn Đ phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0000392 ngày 16/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa. Anh Nguyễn Văn Đ còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, Hàng tháng bên phải thi hành án cần phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình
Số hiệu: | 11/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về