Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 18/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 18 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 493/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 184/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hồng H; nơi ĐKHKTT: Phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đường A, phường D, quận E, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn T; nơi cư trú: Phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ dân sự ly hôn ngày 17/9/2018, trong bản tự khai, quá trình giải quyết tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị Hồng H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Hồng H và anh Bùi Văn T kết hôn năm 2009 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ngày 05/11/2009. Sau khi kết hôn anh chị chung sống bình thường. Đến khoảng năm 2013, vợ chồng anh chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp. Anh T không có trách nhiệm trong việc đ ng g p kinh tế của gia đình. Do vậy, giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã; trong suốt khoảng thời gian sống chung, hai vợ chồng anh chị độc lập về kinh tế. Sau khi xảy ra mâu thuẫn, chị H và anh T sống ly thân khoảng hơn 01 năm, đến năm 2015 thì quay về đoàn tụ và có một con chung. Quá trình chung sống đến năm 2016 vợ chồng anh T - chị H tiếp tục nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến cãi vã, xô xát. Nguyên nhân do anh T mải mê bạn bè, thiếu trách nhiệm với vợ con, đi làm không đóng góp kinh tế để nuôi con cũng như chăm lo cho gia đình, anh T đã nhiều lần đe dọa hành hung chị H. Do vậy, anh chị đã sống ly thân khoảng hơn 2 năm nay. Chị H cùng con chuyển về ăn ở, sinh hoạt tại nhà bố mẹ đẻ, địa chỉ đường A, phường D, quận E, thành phố Hải Phòng, cuối tuần chị đưa con về chơi với bố và ông bà nội. Hiện nay, anh chị không còn quan tâm nhau về tình cảm, độc lập về kinh tế. Vì mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh T để giải phóng cho cả hai người.

Về con chung: Quá trình chung sống chị H và anh T có một con chung là Bùi Trần Trang A, sinh ngày 12 tháng 11 năm 2015. Từ khi ly thân, cháu Trang A ở cùng chị H tại nhà bố mẹ đẻ chị H. Khi ly hôn, chị H có nguyện vọng được nuôi con do cháu còn nhỏ và là con gái. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị H sẽ tự thỏa thuận với anh T nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị H trình bày, anh chị không c tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Bùi Văn T vắng mặt. tại phiên hòa giải, vắng mặt. tại phiên tòa hai lần không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và anh T cũng không có văn bản thể hiện quan điểm giải quyết vụ án gửi Tòa án.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án về cơ bản đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; vắng mặt tại phiên hòa giải, vắng mặt. hai lần tại phiên tòa không có lý do dù đã được tống đạt hợp lệ. Vì vậy, Tòa án tiếp tục xét xử vụ án là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án đã thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa, đề nghị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị H được ly hôn với anh T. Về việc nuôi con: Giao con Bùi Trần Trang A cho chị H nuôi; nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết. Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016, chị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu c trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định: Xét về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1] Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Bùi Văn T cư trú trên địa bàn quận Ngô Quyền nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thời hạn giải quyết vụ án: Vụ án thụ lý ngày 12/12/2018 đến ngày 15/3/2019 có quyết định đưa vụ án ra xét xử là đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập bị đơn là anh Bùi Văn T đến Tòa án nhiều lần nhưng không thể tống đạt trực tiếp các văn bản cho bị đơn được vì anh T không có mặt tại nơi cư trú. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản về việc không thực hiện được việc tống đạt cho anh T đồng thời niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, trụ sở Uỷ ban nhân dân phường Đông Khê và tại nơi cư trú của anh T các văn bản như: Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh T đều vắng m t không c lý do tại phiên hòa giải nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Và anh T cũng không có văn bản thể hiện quan điểm giải quyết vụ án gửi Tòa án. Tại phiên tòa ngày 02/4/2019, anh Bùi Văn T vắng mặtlần thứ nhất không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa và tống đạt trực tiếp Quyết định hoãn phiên tòa cho anh T. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn tiếp tục vắng mặt lần thứ hai không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân:

[4] Điều kiện và quá trình kết hôn như chị H đã trình bày, hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Theo chị H trình bày và tài liệu xác minh, Tòa án xét thấy, từ năm 2013 cuộc sống vợ chồng giữa anh T và chị H đã phát sinh mâu thuẫn nên anh chị đã sống ly thân. Sau đó, vợ chồng anh chị quay lại chung sống và đã có một con chung. Tuy nhiên, giữa chị H và anh T không có tiếng nói chung, bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp, do mâu thuẫn trong đời sống kinh tế nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xô xát. Anh chị thường xuyên sống ly thân, không có sự yêu thương, quan tâm và chăm sóc nhau về tình cảm, độc lập về kinh tế. Tại phiên tòa, chị H xác định không còn tình cảm với anh T và tha thiết đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Anh T không có mặt tại phiên hòa giải và tại phiên tòa dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, cũng không c quan điểm giải quyết vụ án gửi Tòa án. Tòa án xét thấy, cuộc sống chung giữa chị Trần Thị Hồng H và anh Bùi Văn T đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn; đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H theo quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về việc nuôi con:

[5] Chị H và anh T có một con chung như chị H đã trình bày. Tòa án xét thấy, từ khi anh chị sống ly thân cháu Bùi Trần Trang A ở cùng chị H, chị H có công việc và chỗ ở ổn định; cháu Trang A là con gái, còn nhỏ nên giao cháu Trang A cho chị H nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật và hoàn cảnh thực tế của mỗi bên. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về việc chia tài sản:

[6] Chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[7] Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, chị Trần Thị Hồng H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[8] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Trần Thị Hồng H được ly hôn anh Bùi Văn T.

2. Về việc nuôi con:

Chị Trần Thị Hồng H và anh Bùi Văn T có một con chung là Bùi Trần Trang A, sinh ngày 12 tháng 11 năm 2015. Giao con chung Bùi Trần Trang A cho chị Trần Thị Hồng H trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung:

Chị Trần Thị Hồng H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

Chị Trần Thị Hồng H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 14992 ngày 12 tháng 12 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án:

Chị Trần Thị Hồng H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh Bùi Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự c quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án ho c bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

412
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 18/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về