Bản án 64/2018/HNGĐ-ST ngày 26/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 64/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 268/2018/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2018/QĐST- HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Th; nơi cư trú: Số 18 K (tổ 22) phường V, Quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T; nơi cư trú: Số 18 K (tổ 22) phường V, Quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 27 tháng 4 năm 2018, trong quá trình giải quyếtvụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đinh Thị Th trình bày:

Chị Đinh Thị Th và anh Phạm Văn T xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện A (nay là phường V, Quận L), thành phố Hải Phòng ngày 22/10/1998.

Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh T nghiện ma túy nên vợ chồng xảy ra va chạm, xô xát. Gia đình đã hòa giải nhiều lần xong không có kết quả. Đến ngày 3/6/2018 anh T bị công an bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và ngày 05/10/2018 anh T bị Tòa án nhân dân Quận L, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đến nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Văn M, sinh ngày09/3/1999 đến nay đã thành niên, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai anh Phạm Văn T trình bày:

Anh và chị Th xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện A (nay là phường V, Quận L), thành phố Hải Phòng vào năm 1998. Quá trình chung sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì, việc chị Th nói vợ chồng mâu thuẫn từ năm 2015 như đơn khởi kiện là không đúng. Nay chị Th xin ly hôn với anh thì anh không đồng ý ly hôn vì tình cảm vợ chồng vẫn còn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Văn M, sinh ngày 09/3/1999 đến nay đã thành niên, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân phát biểu ý kiến: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật; bị đơn đã chấp hành không đầy đủ quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của đương sự và các tài liệu Tòa án đã thu thập thể hiện mâu thuẫn của chị Th và anh T không thể hòa giải, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị HĐXX xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

 [1] Theo đơn khởi kiện xin ly hôn thì anh Phạm Văn T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 18 Khúc Thừa D, tổ 22 phường V, Quận L, thành phố Hải Phòng; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

 [2] Bị đơn anh Phạm Văn T vắng mặt lần thứ hai, do vậy HĐXX căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh Phạm Văn T.

- Về quan hệ hôn nhân:

 [3] Việc kết hôn giữa chị Đinh Thị Th và anh Phạm Văn T tuân thủ đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp.

 [4] Chị Th trình bày vợ chồng xảy ra mâu thuẫn từ năm 2015, không có khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T, còn anh T trình bày vợ chồng không có mâu thuẫn, anh không đồng ý ly hôn vì tình cảm vợ chồng vẫn còn. Qua thu thập tài liệu, chứng cứ cho thấy vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do anh T nghiện ma túy nên vợ chồng xảy ra xô xát. Ngày 05/10/2018 anh T bị Tòa án nhân dân Quận L, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặc dù anh T không đồng ý ly hôn nhưng cho thấy mâu thuẫn giữa chị Th và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th đối với anh T là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

 [5] Về con chung: Chị Th và anh T có 01 con chung là Phạm Văn M, sinh ngày 09/3/1999 đến nay đã thành niên, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

 [6] Về tài sản chung: Chị Th và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

 [7] Về án phí: Chị Đinh Thị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đinh Thị Th và anh Phạm Văn T.

- Về án phí: Chị Đinh Thị Th phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền trên chị Th đã nộp đủ tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0005189 ngày 01 tháng 6 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

- Về quyền kháng cáo:

Chị Đinh Thị Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Phạm Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2018/HNGĐ-ST ngày 26/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:64/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về