Bản án 11/2018/HSST ngày 30/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH AN, TỈNH CAO BẰNG

 

BẢN ÁN 11/2018/HSST NGÀY 30/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30/8/2018 Tòa án nhân dân huyện Thạch An xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2018/HSST ngày 31/7/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2018/HSST-QĐTA ngày 17/8/2018 đối với bị cáo:

Nông Hoàng T, sinh năm 1990.

Nơi ĐKNKTT và nơi ở hiện nay: xóm T xã B huyện H tỉnh Cao Bằng. Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Tày; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Hoàng Văn V, sinh năm 1963; Con bà: Nông Thị X, sinh năm 1963; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/5/2018, có mặt tại phiên toà.

-Người bị hại: ông Nguyễn Quang K

Trú tại: xóm Đ xã C huyện T tỉnh Cao Bằng. (có mặt tại phiên tòa)

- Người làm chứng: bà Nguyễn Thị Song T Trú tại: Tổ 10 phường S thành phố Cao Bằng. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 24/4/2018 Nông Hoàng T rủ Long Văn C đi xe mô tô của C ra thành phố Cao Bằng mua ma túy cùng nhau sử dụng, sau đó T nhờ C đưa T vào khu vực xã Canh Tân huyện Thạch An để mượn tiền với người quen. Đến nơi do đợi lâu nên C đi xe mô tô về trước, còn T thì ở lại ăn cơm ở nhà người quen. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày T phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu WIN FIGO màu sơn đỏ biển kiểm soát 11F6-1727 dựng trước cửa nhà ông Nguyễn Quang K, chủ nhà đã tắt điện đi ngủ nên T đã dùng 01 đoạn cây tre để phá khóa dây đang khóa bánh sau xe mô tô, sau đó dắt xe theo hướng Canh Tân - thành phố Cao Bằng rồi dùng chùm chìa khóa mà T vừa rút lấy của chiếc xe mô tô khác dựng ở hiên nhà bên cạnh để mở khóa điện và nổ xe mô tô chạy về đến thành phố Cao Bằng là khoảng 0 giờ ngày 25/4/2018. T để xe mô tô ở trong bến xe khách thành phố Cao Bằng rồi xuống gầm cầu Nà Cạn để ngủ, tại gầm cầu T đã gặp đối tượng tên Q (quê huyện H), T có đặt vấn đề nhờ Q tìm chỗ bán xe mô tô vừa trộm được. Q nhận lời và sáng sớm ngày 25/4/2018 Tg và Q đã tháo rời chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11F6-1727 để bán cho chủ cửa hàng phế liệu Nguyện Thị Song T với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau đó T dùng 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để mua ma túy cho Q cùng sử dụng, còn 300.000đ (ba trăm nghìn) T đi xe khách về nhà và chi tiêu cá nhân.

Ngày 27/4/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thạch An đã thu giữ tại cửa hàng thu mua phế liệu của bà Nguyễn Thị Song T: 01 giá chở hàng bằng sắt gắn trên xe mô tô; 01 bánh sau mô tô nhãn hiệu Casumina đã qua sử dụng; 01 động cơ xe mô tô, vỏ máy bên ngoài nhãn hiệu FIGO, số máy040266 đã qua sử dụng, trùng với số máy ghi trong giấy đăng ký xe mô tô của ông Nguyễn Quang K bị mất trộm đêm ngày 24/4/2018.

Ngày 02/5/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thạch An đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu FIGO biển kiểm soát 11F6-1727 số khung 000266, số máy 040266.

Theo kết luận số 16/KL-HĐGĐTS ngày 03/5/2018 của Hội đồng giám định tài sản trong tố tụng hình sự của huyện Thạch An đã kết luận: “Chiếc xe mô tô nhãn hiệu FIGO biển kiểm soát 11F6-1727 số khung 000266, số máy 040266 có giá trị còn lại là 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng)”.

Trong quá trình điều tra ông Nguyễn Quang K đã yêu cầu Nông Hoàng T phải có trách nhiệm bồi thường giá trị còn lại của chiếc xe mô tô nhãn hiệu FIGO biển kiểm soát 11F6-1727, nhưng Nông Hoàng T chưa thực hiện việc bồi thường cho ông Nguyễn Quang K. Tại phiên tòa ông Nguyễn Quang K yêu cầu bị cáo Nông Hoàng T phải bồi thường giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11F6-1727 với số tiền là 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng chẵn). Bị cáo nhất trí với yêu cầu của ông Nguyễn Quang K.

Đối với Long Văn C đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy cùng với Nông Hoàng T, nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Thạch An đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là đúng quy định của pháp luật.

Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không tìm được đối tượng tên Q nên không có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với Nguyễn Thị Song T do tin lời cam đoan của bị cáo Nông Hoàng T và cũng không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên đã mua các bộ phận tháo rời của chiếc xe như thu mua phế liệu, vì không có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có nên Công an huyện Thạch An đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) đối với Nguyễn Thị Song T là đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nông Hoàng T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 như Cáo trạng số 12/CTr-VKS ngày 30/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch An và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Xử phạt bị cáo Nông Hoàng T từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định.

- Xem xét quyền lợi của người bị hại, xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạch An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Vào khoảng 23 giờ ngày 24/4/2018 bị cáo Nông Hoàng T đã lợi dụng đêm tối và sự sơ hở của chủ sở hữu nhằm lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu FIGO biển kiểm soát 11F6-1727 của ông Nguyễn Quang K mang về thành phố Cao Bằng rồi tháo rời từng bộ phận đem bán cho cửa hàng thu mua phế liệu Nguyễn Thị Song T được 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thạch An đã kết luận: “Chiếc xe mô tô nhãn hiệu FIGO biển kiểm soát 11F6-1727 số khung 000266, số máy 040266 có giá trị còn lại là 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng)”.

Như vậy hành vi của Nông Hoàng T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015: “Điều 173. Tội trộm cắp tài sản:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”

Do đó Cáo trạng số 12/CTr-VKS ngày 30/7/2018 của VKSND huyện Thạch An tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 và bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

 [3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nông Hoàng T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì lười lao động, không chịu làm ăn chân chính nên đã lợi dụng sơ hở mất cảnh giác của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Trong quá trình điều tra bị cáo đã không chấp hành quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú nên đã bị truy nã, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phục vụ công tác phòng ngừa tội phạm nói chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định.

 [4] Kiểm sát viên đề xuất áp dụng các điều luật, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo và xử lý vật chứng là có căn cứ pháp luật.

[5] Phần tranh luận: bị cáo không tranh luận và không có ý kiến gì thêm.

 [6] Phần nói lời sau cùng: bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sửa lỗi lầm, sớm trở về với gia đình.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên toà người bị hại có yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11F6-1727 với số tiền là 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng chẵn), bị cáo nhất trí với yêu cầu của bị hại, nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét.

 [8] Về xử lý vật chứng của vụ án: Đối với: 01 (một) giá chở hàng bằng sắt màu đen đã qua sử dụng dùng để gắn trên xe mô tô nặng 11,8kg; 01 (một) bánh sau xe mô tô, nhãn hiệu Casumina, cỡ lốp 300-17 đã qua sử dụng; 01 (một) động cơ xe mô tô, vỏ bên phải có nhãn FIGO, số máy 040266, đã qua sử dụng; 01 (một) khóa dây màu xanh hiệu Việt Tiệp một bên dầu dây nối với ổ khóa đã bị hỏng tại đoạn nối với đoạn bắt tra vào ổ khóa; 01 (một) vỏ ốp sau vỏ xi nhan sau xe Win bằng nhựa màu vàng đã bị vỡ. Đây là những bộ phận đã bị tháo rời từ chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11F6-1727 số khung 000266, số máy 040266, nên không còn giá trị sử dụng, cần phải tịch thu để tiêu hủy. Còn 01 (một) đoạn cây tre màu đen có chiều dài 60cm, đường kính rộng nhất 04cm là công cụ để thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần tịch thu để tiêu hủy.

 [9] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015: Tuyên bố bị cáo Nông Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nông Hoàng T 07 (tháng) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 29/5/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 42 của Bộ luật hình sự 2015; các Điều 584, 585, 589 của Bộ luật Dân sự 2015: Buộc bị cáo Nông Hoàng T phải bồi thường cho ông Nguyễn Quang K (trú tại: xóm Đ xã C huyện T tỉnh Cao Bằng) giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11F6-1727 số tiền là 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng chẵn). Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật khi bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu bên phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì sẽ phải chịu lãi suất nợ quá hạn do ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ  Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tịch thu để tiêu hủy:

- 01 (một) giá chở hàng bằng sắt màu đen đã qua sử dụng dùng để gắn trên xe mô tô nặng 11,8kg;

- 01 (một) bánh sau xe mô tô, nhãn hiệu Casumina, cỡ lốp 300-17 đã qua sử dụng;

- 01 (một) động cơ xe mô tô, vỏ bên phải có nhãn FIGO, số máy 040266, đã qua sử dụng;

- 01 (một) khóa dây màu xanh hiệu Việt Tiệp một bên dầu dây nối với ổ khóa đã bị hỏng tại đoạn nối với đoạn bắt tra vào ổ khóa;

- 01 (một) vỏ ốp sau vỏ xi nhan sau xe Win bằng nhựa màu vàng đã bị vỡ; 04cm.

- 01 (một) đoạn cây tre màu đen có chiều dài 60cm, đường kính rộng nhất

Xác nhận số vật chứng hiện đang được tạm giữ tại kho tang vật của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thạch An theo biên bản bàn giao vật chứng lập ngày 31/7/2018 giữa Công an huyện Thạch An và Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Thạch An.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nông Hoàng T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự, tổng cộng là 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) để sung ngân sách nhà nước.

"Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự".

Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, người bị hại. Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HSST ngày 30/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:11/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về