Bản án 111/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 111/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

TRƯƠNG THỊ LAN P, sinh ngày 15/8/19XX tại T H; ĐKHKTT: Số X Đ L T, phường O C D, quận Đ Đ, TP Hà Nội; nơi cư trú: Số X ngõ Y H N, phường O C D, quận Đ Đ, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Xuân Ư và bà Nguyễn Thị T; có chồng Nguyễn Trung N (Đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/01/2021 đến ngày 21/01/2021, hiện tại ngoại có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Lý Thị K, sinh năm 19XX; nơi cư tru : thôn A T, xã T V, huyện C M, TP Ha Nôi, văng măt.

2. Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 19XX; nơi cư tru : xóm X, xã T N, huyện X T, tỉnh Nam Định, văng măt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15h00 ngày 12/01/2021 tổ Công tác Công an phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm tiến hành kiểm tra hành chính nhà nghỉ Á Châu tại số 131 đường Phú Diễn, Bắc Từ Liêm, Hà Nội; phát hiện tại phòng 206 có Trương Thị Lan P đang mua bán dâm với Nguyễn Văn D (SN 19XX; NKTT: T N, X T, Nam Định), tại phòng 208 có Lý Thị K (SN 19XX; NKTT: Thôn A T, T V, C M, Hà Nội) đang mua bán dâm với Nguyễn Ngọc T (SN 20XX; NKTT: phường M K, B T L, Hà Nội). Đấu tranh tại chỗ các đối tượng mua bán dâm thông qua sự môi giới của Trương Thị Lan P nên tổ công tác đã đưa các đối tượng về trụ sở để làm rõ.

* Vật chứng thu giữ của TrƯơng Thị Lan P:

- 01 điện thoại di động màu xanh kiểu dáng OPPO A53 có sim 1:

0902.895.XXX; sim 2: 0986.261.XXX;

- 10 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng;

- 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 bao cao su đã qua sử dụng.

* Thu giữ của Lý Thị K:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu đen bạc đã qua sử dụng lắp sim số 056.687.XXXX;

- 01 bao cao su đã qua sử dụng.

* Thu giữ của Nguyễn Văn D: 01 điện thoại Masstel gắn sim số 0562.868.XXX đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra xác định:

Trương Thị Lan P (tên gọi khác N) quen Nguyễn Văn D (SN 19XX;

NKTT: Số X ngõ Y H N, Đ Đ, Hà Nội) từ trước và có massage bán dâm cho D một lần. Đến trưa ngày 12/01/2021, D cùng Nguyễn Ngọc T (SN 20XX; NKTT: N X 1, phường M K, quận B T L, Hà Nội) đi ăn uống, sau đó cả hai rủ nhau đi mua dâm. Do D từng mua dâm P nên có số điện thoại, D dùng điện thoại Masstel lắp sim số 0562.868.XXX gọi đến số điện thoại 0902.895.XXX của P bảo P bán dâm và gọi thêm một gái nữa đi cùng bán dâm cho bạn của D. P và D thỏa thuận giá bán dâm của hai người là 3.500.000 đồng; 500.000 đồng tiền đi taxi của P và bạn đồng thời cho thêm P 1.000.000 đồng tiền công gọi gái bán dâm. Sau khi thỏa thuận xong, P liên hệ với Lý Thị K đi bán dâm cho khách với giá 1.000.000 đồng, K đồng ý nên P đi taxi đến đường Lê Văn Lương đón K, rồi cả hai đi đến nhà nghỉ Á Châu tại số 131 đường Phú Diễn, phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội gặp D và T. Sau đó cả 4 lên phòng 208, tại đây D đưa cho P 5.000.000 đồng, P cất tiền vào túi rồi cùng D đi sang phòng 206 để quan hệ tình dục, còn T và K ở lại phòng 208 để quan hệ tình dục. Khi T và K; P và D đang quan hệ tình dục thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ.

* Xét nghiệm ma túy của Trương Thị Lan P, Lý Thị K kết quả: âm tính (không sử dụng ma túy).

Đối với hành vi bán dâm của Trần Thị Lan P, Lý Thị K, ngày 08/3/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 200.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ.

Đối với hành vi mua dâm của Nguyễn Văn D, Nguyễn Ngọc T, ngày 08/3/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định số 167/2013/NĐ - CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ. P, K, D, T đã nộp phạt.

Đối với nhà nghỉ Á Châu, người đứng tên đăng ký là chị Phan Thị Hồng H (SN 19XX; NKTT: Tổ X, phường L N quận H M, Hà Nội). Tại thời điểm kiểm tra hành chính đã xuất trình được đầy đủ giấy tờ kinh doanh và vào sổ lưu trú khi khách đến lưu trú đúng quy định nên Công an quận Bắc Từ Liêm không xử lý.

Đối với Trần Văn H (SN: 19XX; Chỗ ở: số X P D, quận B T L, Hà Nội - là nhân viên lễ tân của nhà nghỉ Á Châu) cho Nguyễn Văn D thuê phòng nhưng không biết là để mua bán dâm nên Công an quận Bắc Từ Liêm không xử lý.

Bản cáo trạng số 64/CT-VKSBTL ngày 31/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Trương Thị Lan P về tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trương Thị Lan P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội đã quy kết và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất; bị cáo là lao động chính trong gia đình đang nuôi dưỡng bố, mẹ già yếu và con đẻ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, những người làm chứng, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội đối với bị cáo Trương Thị Lan P về tội “Môi giới mại dâm”. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trương Thị Lan P từ 06 đến 09 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Vật chứng: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 03 điện thoại di động cùng 5.000.000 đồng và tiêu hủy các tang vật khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trương Thị Lan P tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, những người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 12/01/2021, tại nhà nghỉ Á Châu ở số 131 đường Phú Diễn, phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội, Trương Thị Lan P đã thực hiện hành vi môi giới cho anh Nguyễn Ngọc T mua dâm với chị Lý Thị K để nhằm mục đích thu lời bất chính số tiền 1.000.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo Trương Thị Lan P đa bị Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội truy tố về tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, sức khỏe con người và là nguyên nhân làm lây truyền các loại bệnh xã hội, gây mất trật tự trị an xã hội, hoang mang lo lắng, bất bình trong nhân dân. Do vậy đối với bị cáo cần phải đưa ra xét xử trước pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu trừng trị, răn đe, đấu tranh và phòng ngừa loại tội phạm này nói chung.

[4] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Tăng nặng: Không.

- Giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; nhân thân bị cáo chưa tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bố bị cáo ông Trương Xuân Ứng tham gia kháng chiến được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất, hiện già yếu, ốm đau; bản thân bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình đang phải nuôi bố, mẹ già và con đẻ là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy cũng nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo được yên tâm cải tạo sớm trở về hòa nhập với xã hội.

[5] Xét bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 02 (hai) phong bì bên trong chứa 02 (hai) bao cao su đã qua sử dụng là tang vật vụ án nên tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng OPPO A53, màu xanh đã qua sử dụng, Imei1: 864326055352854; Imei2: 864326055352847 không kiểm tra chất lượng bên trong, lắp sim có số thuê bao: 0902.895.XXX và 0986.261.XXX; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6S, màu đen bạc đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Masstel đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, lắp sim có số thuê bao: 0562.868.XXX và số tiền 5.000.000 đồng thu giữ của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là tiền và P tiện liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Thị Lan P phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Thị Lan P 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/01/2021 đến ngày 21/01/2021).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, - Tiêu hủy 02 (hai) phong bì bên trong chứa 02 (hai) bao cao su đã qua sử dụng.

- Sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng OPPO A53, màu xanh đã qua sử dụng, Imei1: 864326055352854; Imei2:

864326055352847 không kiểm tra chất lượng bên trong, lắp sim có số thuê bao: 0902.895.XXX và 0986.261.XXX; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6S, màu đen bạc đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong;

01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Masstel đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, lắp sim có số thuê bao: 0562.868.XXX và số tiền 5.000.000 đồng.

(Tang vật hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao, nhận vật chưng số 138/21 ngày 15/4/2021 giữa Công an quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội với Chi cục Thi hành án quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội).

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Trương Thị Lan P phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:111/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về