Bản án 261/2018/HSST ngày 30/10/2018 về tội môi giới mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 261/2018/HSST NGÀY 30/10/2018 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 30.10.2018, tại trụ sở Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 275/2018/HSST ngày 16.10.2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 285/2018/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Lục Thị Ngọc H - Sinh năm: 1989, HKTT: 240/110/66 N, phường 11, quận 6, Thành phố H. Nơi ở: không cố định. Nghề nghiệp: tự do. Trình độ văn hoá: 05/12, Con ông: Trần Ngọc B (đã chết), con bà: Lục Thị B. Tiền án, tiền sự: không. Danh chỉ bản số: 365 lập ngày 07/8/2018 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp. Bắt tạm giữ ngày 06/08/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an Thành phố Hà Nội.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1991

Địa chỉ: số 10 ngách 51 L, phường V, quận Đ, thành phố H

Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Lê Văn T, sinh năm 1992

Địa chỉ: xã H, huyện P, thành phố H.

Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Anh Nguyễn Hải A, sinh năm 1995 Địa chỉ: 31 L, phường Đ, quận H, thành phố H.Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15h05’ ngày 06/08/2018, Tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Hai Bà Trưng tiến hành kiểm tra hành chính khách sản Thể Kỷ Mới số 8 ngõ 55 Lê Đại Hành, Hai Bà Trưng, Hà Nội, phát hiện tại phòng 404 và phòng 305 có 02 đôi nam nữ có hành vi mua bán dâm.

Tại phòng 404: gái bán dâm là Lục Thị Ngọc H, khách mua dâm là Lê Văn T (SN: 1992; trú tại xã H, huyện P, thành phố H). Thu giữ của H4.000.000 đồng, 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám đã qua sử dụng. Thu giữ của T 01 điện thoại di động Nokia 1202 màu xanh ghi đã qua sử dụng dùng để liên lạc mua dâm với H.

Tại phòng 305: gái bán dâm là Nguyễn Thị Tr (SN: 1991; trú tại số 10 ngách 51 L, phường V, quận Đ, thành phố H); khách mua dâm là Nguyễn Hải A (SN: 1995; trú tại 31 L, phường Đ, quận H, thành phố H). Thu giữ của Trang: số tiền 4.000.000 đồng; 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 4 màu đen đã qua sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, Lục Thị Ngọc H khai nhận: Bản thân H là gái bán dâm. Khoảng 12 giờ ngày 06/08/2018, H nhận được điện thoại của T hỏi mua dâm. H đồng ý và thỏa thuận giá là 4.000.000 đồng/01 người/01 lượt tàu nhanh. T nhờ H gọi cho thêm 01 gái bán dâm nữa cho bạn của T. Sau đó, H gọi điện cho Tr để rủ Tr đi bán dâm cho T và bạn của T với giá 4.000.000 đồng/01 người/01 lượt. Tr đồng ý, T hẹn H tại phòng 404 khách sạn Thế Kỷ Mới – số 8 ngõ 55 Lê Đại Hành, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tại đây, khi H và Tr đến, theo như thỏa thuận từ trước, T đưa 4.000.000 đồng cho H và Hải A đưa 4.000.000 đồng cho Tr. Sau khi nhận tiền, Trang và Hải A đi xuống phòng 305 để quan hệ tình dục còn H và T ở lại phòng 404. Khi đang mua bán dâm thì bị công an kiểm tra phát hiện bắt giữ cùng tang vật như trên.Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn T. Nguyễn Hải A và Nguyễn Thị Tr khai nhận về việc mua bán dâm như trên phù hợp với lời khai của Lục Thị Ngọc H. Trang bán dâm cho Hải A là thông qua việc giới thiệu của H.

Đối với số tài sản thu giữ của H và Tr, quá trình điều tra xác định 02 chiếc điện thoại di động là tài sản cá nhân của H và Trang dùng vào việc liên lạc mua bán dâm, số tiền 8.000.000 đồng là tiền công bán dâm mà T và Hải A trả cho H và Tr.

Ngày 27/09/2018, Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với 02 gái bán dâm là Lục Thị Ngọc H và Nguyễn Thị Tr, mỗi đối tượng 200.000 đồng về hành vi bán dâm được quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.

Đối với Lê Văn T và Nguyễn Hải A, Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định xử phạt mỗi đối tượng 750.000 đồng về hành vi mua dâm được quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 11/12/2013 của Chính phủ.

Đối với khách sạn Thế Kỷ Mới số 8 ngõ 55 Lê Đại Hành, Hai Bà Trưng, Hà Nội giám đốc là anh Trần Tuấn S (Sinh năm: 1962, HKTT: số 2 ngõ V, phố T, phường H, quận Đ, thành phố H), do đã chủ động phát hiện những biểu hiện nghi vấn về tệ nạn xã hội, thông báo cho cơ quan công an nên cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý trong vụ án này.

Tại Bản cáo trạng số 259/CT/VKS-HS ngày 12 tháng 10 năm 2018 đã truy tố bị cáo Lục Thị Ngọc H về tội Môi giới mại dâm quy định tại khoản 1Điều 328 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan công an, công nhận nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Lục Thị Ngọc H như tội danh và điều luật đã viện dẫn tạibản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 328, điểm s khoản 1điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lục Thị Ngọc H với mức án từ 10 (Mười) tháng đến 15 (Mười lăm) tháng tù.Không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản.

Về xử lý vật chứng: căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 plus màu xám đã qua sử dụng thu giữ của H, 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 4 màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Tr, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1202 màu xanh ghi đã qua sử dụng thu giữ của T, số tiền 8.000.000 đồng thu giữ của H và Tr.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai củangười làm chứng, của những người liên quan đã bị xử lý hành chính tại cơ quan điều tra. Hội đồng xét xử xét thấy: Khoảng 15h05’ ngày 06/08/2018, Lục Thị Ngọc H có hành vi môi giới Nguyễn Thị Tr bán dâm cho Nguyễn Hải A tại phòng 305 khách sạn Thế Kỷ Mới số nhà 8 ngõ 55 Lê Đại Hành, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội. Hành vi của Lục Thị Ngọc H đã cấu T tội Môi giới mại dâm được quy định tại khoản 1 điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

“Điều 328. Tội môi giới mại dâm

1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội xâm phạm đến đạo đức, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, xâm phạm đến sức khoẻ của con người. Mại dâm là một tệ nạn xã hội gây ra nhiều tác hại cho mọi mặt của đời sống con người. Bị cáo nhận thức và biết rõ việc môi giới mại dâm cho người khác mua bán dâm là vi phạm pháp luật. Song do hám lời, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy việc áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo là cần thiết để có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân của bị cáo Lục Thị Ngọc H không có tiền án, tiền sự. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã T khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thực sự ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 (Mười triệu) đồng đến 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng.

Tuy nhiên, xét hoàn cảnh gia đình bị cáo Lục Thị Ngọc H có nhiều khó khăn, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, bị cáo bán dâm vàmôi giới mại dâm để lấy tiền nuôi con nhỏ, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

+ Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bao cao su đã qua sử dụng.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 plus màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng Imel: 359322060955361 thu giữ của bị cáo H liên quan đến hành vi phạm tội.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại nhãn hiệuIphone 4 màu đen đã qua sử dụng, không rõ nguồn gốc, chất lượng, Imel: 013064008267438 thu giữ của Nguyễn Thị Tr liên quan đến hành vi phạm tội.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại nhãn hiệu nokia 1202 màu xãnh ghi, đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc chất lượng, Imel: 357401045093548 của đối tượng Lê Văn T vì liên quan đến hành vi phạm tội.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước sô tiền 8.000.000 (tám triệu) đồng liên quan đến hành vi phạm tội.

Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố : Bị cáo Lục Thị Ngọc H phạm tội: “Môi giới mại dâm”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm2017, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửađổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo: Lục Thị Ngọc H: 12 tháng tù về tội: “Môi giới mại dâm”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 06/08/2018.

2. Về xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bao cao su đã qua sử dụng.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại nhãn hiệuIphone 6 plus màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc chất lượng Imel: 359322060955361.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại nhãn hiệuIphone 4 màu đen đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc chất lượng Imel:013064008267438.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Nokia 1202 màu xãnh ghi đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc chất lượng Imel: 357401045093548 .

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước sô tiền 8.000.000 (tám triệu) đồng.

Các tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 29/10/2018 (TV: 22/19) giữa Công an quận Hai Bà Trưng và Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng. Và giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 26/10/2018.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý vàsử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lục Thị Ngọc H phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

619
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 261/2018/HSST ngày 30/10/2018 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:261/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về