Bản án 110/2021/HNGĐ-ST ngày 20/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 110/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại Trụ Sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Toà án nhân dân thành phố T mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án về Hôn nhân và gia đình thụ lý số 307/TLST-HNGĐ, ngày 19/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/3/2021và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2021/QĐST – HNGĐ ngày 31/3/2021, giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Đỗ Thị Thu H, sinh năm 1972 Địa chỉ: Thôn Kim Xuyên, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang

* Bị đơn: Ông Vũ Ngọc A, sinh năm 1970 Nơi cư trú cuối cùng: Tổ dân phố 17, (tổ dân phố 34 cũ), phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn là bà Đỗ Thị Thu H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông Vũ Ngọc A, sinh năm 1970 đăng ký kết hôn tại UBND phường M, thị xã Tuyên Quang (nay là thành phố T) vào ngày 09/01/1997. Sau khi kết hôn bà H và ông A sinh sống tại xã C, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Quá trình chung sống ông A làm việc tại Chi cục thuế huyện S, bà H làm tại Trạm y tế xã C. Năm 1999 thì bà H chuyển công tác về Trạm Y tế xã H, huyện S tỉnh Tuyên Quang đồng thời bà H cũng về nhà mẹ đẻ sinh sống. Do mâu thuẫn vợ chồng nên năm 1999 ông A cũng về ở cùng nhà bố mẹ đẻ của ông A tại tổ dân phố 17 (tổ dân phố 37 cũ) phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Năm 2002 thì ông A bỏ nhà đi đâu bà H không biết, từ khi ông A bỏ đi khỏi địa phương ông A không có liên lạc gì với bà H và gia đình nữa, vì không có tung tích gì của ông A nên ngày 19/4/2019 bà H làm đơn thông báo tìm kiếm người vắng mặt và đơn yêu cầu tuyên bố ông A mất tích. Ngày 07/10/2019 Tòa án nhân dân thành phố T đã chấp nhận đơn yêu cầu của bà H và ban hành Quyết định số 03/2019/QĐST-VDS tuyên bố ông Vũ Ngọc A mất tích. Cho đến nay ông A vẫn không trở về và không có tin tức gì, bà H làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn ông Vũ Ngọc A;

- Về con chung: Bà H xác nhận bà và ông Vũ Ngọc A có một con chung là Vũ Quốc H, sinh ngày 07/4/1997. Bà H xác nhận anh Vũ Quốc H đã ở tuổi trường thành, tinh thần và thể chất phát triển bình thường, có khả năng tự lập, không có yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung;

- Về tài sản chung: Bà H xác nhận, bà và ông A không có tài sản gì chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

- Về vay nợ: Bà H xác nhận, bà và ông A không vay nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng của vụ án theo quy định của pháp luật nhưng ông A không đến tham gia tố tụng theo thời gian triệu tập của Tòa án. Tiến hành xác minh thu thập chứng cứ về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và vay nợ giữa bà H và ông A tại nơi cư trú cuối cùng của ông A, kết quả xác minh như sau:

- Đại diện Tổ dân phố 17 (tổ dân phố 37 cũ), phường M, thành phố T xác nhận: Ông Vũ Ngọc A, sinh năm 1970 không có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố 17 (tổ dân phố 37 cũ), phường M. Năm 2019 Tòa án có tuyên bố ông Vũ Ngọc A mất tích có nơi cư trú cuối cùng tổ dân phố 17 (tổ dân phố 37 cũ), phường M vì lý do ông A bỏ đi nhiều năm không có tung tích gì. Hiện tại ở tổ dân phố 17 phường M không có ai tên là Vũ Ngọc A sinh năm 1970 sinh sống. Nay chị Đỗ Thị Thu H có yêu cầu ly hôn ông Vũ Ngọc A, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bà H và ông A đều vắng mặt, bà H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nội dung đơn xin xét xử vắng mặt bà H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: Đề nghị Tòa án giải quyết cho bà H ly hôn ông A, không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung, tài sản chung và vay nợ.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Từ khi thụ lý đơn và trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đảm bảo đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; Trình tự phiên tòa được thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật; Việc chấp hành của đương sự: Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án đã thực hiện việc xác minh, tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng của vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố T đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử cho bà Đỗ Thị Thu H ly hôn ông Vũ Ngọc A;

Về án phí và quyền kháng cáo: Tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai của đương sự, biên bản hòa giải tại Tòa án, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

- Vụ án Tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bị đơn có địa chỉ tại thành phố T. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T theo quy định khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Các đương sự đã được Tòa án triệu tập hợp lệ theo quy định tại Điều 227, Điều 173 Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không lý do.

- Về việc kiểm tra việc giao nộp chứng cứ: Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án Giấy chứng nhận kết hôn bản chính; Bản sao: Sổ hộ khẩu gia đình, Chứng minh nhân dân của Đỗ Thị Thu H, giấy khai sinh Vũ Quốc H, Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự về việc tuyên bố ông Vũ Ngọc A mất tích. Nguyên đơn không có ý kiến gì về các tài liệu tòa án công bố tại phiên họp.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị Thu H có quan hệ hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống bà H và ông A đã ly thân nhiều năm do mâu thuẫn vợ chồng từ năm 1999, kể từ ngày Tòa án tuyên bố ông A mất tích cho đến nay bà H không có tung tích gì của ông A. Xét thấy cuộc sống hôn nhân của vợ chồng bà Đỗ Thị Thu H và ông Vũ Ngọc A là xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ không đạt được. Từ những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Thu H về việc yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông Vũ Ngọc A.

-Về con chung: Bà Đỗ Thị Thu H và ông Vũ Ngọc A có một con chung là Vũ Quốc H, sinh ngày 07/4/1997 đã trưởng thành, bà Đỗ Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung. Do vậy, HĐXX không xem xét giải quyết về việc giao người trực tiếp nuôi con và trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Kết quả xác minh không xác định được bà Đỗ Thị Thu H và ông Vũ Ngọc A có tài sản chung hay không, ông Vũ Ngọc A không có mặt tại địa phương, bà Đỗ Thị Thu H xác nhận vợ chồng không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

- Về vay nợ chung: Kết quả xác minh không xác định được việc ông Vũ Ngọc A và bà Đỗ Thị Thu H có vay nợ chung, quá trình giải quyết vụ án không có tổ chức, cá nhân nào yêu cầu Tòa án giải quyết về vay nợ chung giữa bà H và ông A, bà H xác nhận bà và ông A không có vay nợ chung, không yêu cầu Tòa giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết về vay nợ chung trong vụ án này.

[3] Về án phí: Bà Đỗ Thị Thu H không thuộc trường hợp được miễn nộp án phí. Căn cứ quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Do vậy, anh bà Đỗ Thị Thu H phải chịu toàn bộ Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm của vụ án là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Đỗ Thị Thu H đã nộp trong vụ án này tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T. Bà Đỗ Thị Thu H đã đã nộp đủ án phí của vụ án, ông Vũ Ngọc A không phải chịu án phí.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; Điều 35, Điều 39, Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 228, Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho bà Đỗ Thị Thu H ly hôn ông Vũ Ngọc A.

2. Về án phí: Bà Đỗ Thị Thu H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Đỗ Thị Thu H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000690 ngày 06/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T. Bà Đỗ Thị Thu H đã nộp đủ án phí của vụ án.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Đỗ Thị Thu H và ông Vũ Ngọc A được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2021/HNGĐ-ST ngày 20/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

Số hiệu:110/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về