Bản án 110/2019/HSST ngày 20/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 110/2019/HSST NGÀY 20/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20/08/2019 tại phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 116/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trần Minh T, sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Số N Bình Đông, Phường 15, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1960 và bà Trần Thị Bích N, sinh năm 1961; Vợ con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Quyết định số 116/QĐ – TA ngày 31/3/2017 của Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 15 tháng - Chấp hành xong vào ngày 11/4/2018. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2019, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Khắc T, sinh năm 1991; Địa chỉ: Số A Tôn Đản, Phường 10, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Trần Minh T nghiện chất ma túy nên thường hay mua trái phép chất ma túy là ma túy đá về sử dụng. Nhà bị cáo ngay bến Bình Đông, Quận 8 và bị cáo thường thấy có người mua ma túy của người đàn ông ở bến nên bị cáo đến mua chất ma túy của người đàn ông (Không rõ nhân thân lai lịch) về sử dụng, mỗi lần chỉ mua 100.000 đồng.

Bị cáo và Nguyễn Khắc T là bạn bè, T làm nghề buôn bán, bỏ mối trái dừa cho các quán và khi thấy bị cáo có việc làm không ổn định, T rủ bị cáo về làm chung và giao việc bị cáo đi bỏ mối dừa cho T với thời gian làm việc từ sáng đến tối trong thời gian làm việc bị cáo ở phòng trọ của T để thuận tiện đi giao hàng. Phòng trọ nhà số 861/27/53 khu phố 4, phường Tân Hưng, Quận 7 do T thuê và ở một mình.

Khi bị cáo mua được ma túy, bị cáo bỏ vào trong bóp để sử dụng dần, còn bộ dụng cụ sử dụng ma túy bị cáo cất giấu sau tủ để quần áo của T để T không phát hiện bị cáo sử dụng. Khi T đi vắng T mới lấy gói ma túy ra sử dụng. Việc bị cáo T cất giấu và sử dụng ma túy, T hoàn toàn không biết.

Khong 21 giờ 40 phút ngày 15/6/2018, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quân 7 phối hợp Công an phường Tân Hưng, Quận 7 kiểm tra phòng trọ nhà số 861/27/53 khu phố 4, phường Tân Hưng, Quận 7 phát hiên trên bàn trong phòng có 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu có khối lượng 0,9606 gam là ma tý ở thể rắn loại Methamphetamine, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và một mình Nguyễn Trần Minh T đang ở trong phòng trọ.

Tại Cơ quan sảnh sát Điều tra Công an Quận 7, khai nhận: gói ma túy Công an Quận 7 thu giữ trên bàn trong nhà trọ số 864/27/53 khu phố 4, phường Tân Hưng, Quận 7 là của T mua của một thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực bờ sông Quận 8 với giá tiền 100.000 đồng. Ngày 15/6/2018, T mang gói ma tuý sang phòng của Nguyễn Khắc T tại địa điểm trên để sử dụng và đã sử dụng được một ít, còn lại một ít bị cáo đang cất giữ trong bóp và để trền bàn.

Kết luận giám định số 1058/KLGĐ-H ngày 22/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì tinh thể không màu trong 01 (một) gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Nguyễn Trần Minh T và hình dấu của Công an phường Tân Hưng, Quận 7 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,9606g (không phẩy chín sáu không sáu gam), loại Methamphetamine Vật chứng vụ án:

- 01 (một) gói nylon chứa tính thể không màu.

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Bản Cáo trạng số 125/CT-VKSQ7 ngày 17 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Trần Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Trần Minh T tại phiên toà hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra và phù hợp với vật chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở khẳng định: Nguyễn Trần Minh T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Trần Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Trần Minh T từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù và miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Đối với vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy gói ma túy còn lại sau giám định và bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan cáo T hành tố tụng, người cáo T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cáo T hành tố tụng, người cáo T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Nguyễn Trần Minh T đã có hành vi tàng trữ chất ma túy là Methamphetamine có khối lượng 0,9606g (không phẩy chín sáu không sáu gam) để sử dụng trái phép. Hành vi này của bị cáo Nguyễn Trần Minh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Trần Minh T là phù hợp, do bị cáo phạm tội lần đầu, có hoàn cảnh khó khăn.

[5] Bị cáo Nguyễn Trần Minh T có nhân thân chưa bị kết án nhưng đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, bị cáo nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội nên cần phải xử lý bị cáo bằng mức án nghiêm mới có đủ tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về vật chứng vụ án, Cơ quan công an thu giữ:

- 01 (một) gói ma túy niêm phong vụ số 1058/18: Đây là chất ma túy bị cáo tàng trữ trái phép để sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Đây là phương tiện bị cáo dùng để sử dụng chất ma túy nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với người đàn ông (Không rõ nhân thân lai lịch): Bị cáo khai là người bán ma túy cho bị cáo ở bến Bình Đông, Quận 8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Đi với ông Nguyễn Khắc T do chưa có căn cứ xác định có hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không xử lý là có cơ sở.

[8] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trần Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 1. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trần Minh T 02 (Hai) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 13/5/2019.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói ma túy vụ số 1058/18 và bộ dụng cụ sử dụng ma túy (Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 121 ngày 29/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Nguyễn Trần Minh T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản sao bản án được niêm yết tại địa phương./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2019/HSST ngày 20/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:110/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về