TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 109/2019/HSST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 115/2019/HSST ngày 14 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:
Họ và tên: Vũ Thị N - tên gọi khác: không; giới tính: Nữ Sinh ngày 24/8/1974 tại thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái Nơi ĐKHKTT: Tổ 01, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Chỗ ở: Tổ 19, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Đ (đã chết) và bà Lê Thị T, sinh năm 1945, cư trú tại tổ 01, thị trấn Yên Bình, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái; có chồng Nguyễn Hữu T( đã ly hôn); con Nguyễn Yến N, sinh 2004 và Nguyễn Tùng A, sinh năm 2013, cùng cư trú tại xãT, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ; tiền án: không; tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/9/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai - có mặt.
Người chứng kiến: Chị Nguyễn Thị Minh N;
Địa chỉ: Tổ 28, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai- vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 21 giờ 25 phút ngày 16/9/2019, tổ công tác thuộc phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lào Cai làm nhiệm vụ tại khu vực dốc K30, thuộc phường Phố Mới, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai bắt quả tang bị cáo Vũ Thị N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 01( một) gói ni lon, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn mầu trắng là ma túy đá. Ngoài ra, còn tạm giữ của bị cáo 01( một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số imei 355147804481800 và 100.000đ( một trăm ngàn đồng). Đến 22 giờ 45 phút, cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an tỉnh Lào Cai khám xét tại nơi ở của bị cáo Vũ Thị N ở tổ 19, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai, thu giữ 01( một) hộp nhựa màu hồng có ghi chữ “hộp đựng phấn” bên trong có nhiều túi li lon nhỏ và 01(một) hộ chiếu số B0627631 mang tên Vũ Thị N.
Tại biên bản mở niên phong và giao nhận đối đượng giám định hồi 07giờ 00 phút ngày 17/9/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lào Cai và phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai xác định: Niêm phong còn nguyên vẹn: Vật chứng gửi đến giám định 1,42( Một phẩy bốn mươi hai) gam các hạt tinh thể rắn màu trắng, trích 0,16 ( Không phẩy mười sáu) gam để tiến hành giám định, còn lại 1,26 (Một phẩy hai mươi sáu) gam được tái niên phong hoàn trả cơ quan trưng cầu.
Kết luận giám định số 204/GĐMT ngày 18/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 1,42( Một phẩy bốn mươi hai) gam các hạt tinh thể rắn màu trắng gửi đến giám định là loại chất ma túy Methamphetamine.
Cáo trạng số 115/CT-VKSTPLC ngày 13/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Vũ Thị N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo Vũ Thị N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Vũ Thị N có hành vi tàng trữ trái phép 1,42( Một phẩy bốn mươi hai) gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng.Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận tội, lời nhận tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Vì vậy, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Vũ Thị N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Xử lý vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Kiển sát viên Viện kiển sát nhân dân thành phố Lào Cai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều thực hiện hợp pháp.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Do nghiện chất ma túy, nên khoảng 21 giờ 25 phút ngày 16/9/2019 bị cáo đi xe ôm đến khu vực cửa hàng xăng dầu Cam Đường thuộc tổ 14, phường Pom Hán, thành phố Lào Cai, mua của một người đàn ông không biết tên đang đứng ở ven đường đối diện với cửa hàng xăng dầu 800.000đ( Tám trăm ngàn đồng) được 1,42 gam Methamphetamine. Sau khi mua được ma túy bị cáo mang về nhà để sử dụng. Khi đi đến khu vực tổ 5 thuộc phường Phố Mới, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai thì bị bắt quả tang, tổ Công tác đưa bị cáo về trụ sở Công an thuộc tổ 8, phường Phố Mới, tại đây bị cáo đã giao nộp toàn bộ ma túy. Cơ quan Công an tiến hành thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định. Vì vậy, bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết pháp luật, bị cáo biết rõ nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy. Nhưng do nghiện ma túy, bị cáo đã thực hiện hành vi mua, tàng trữ trái phép 1,42 gam Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” . Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm khắc trước pháp luật, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời lấy đó làm bài học cho công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Sau khi bị bắt, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Về hình phạt bổ sung: HĐXX xét thấy điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, không có khả năng để thi hành án nên không áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền với đối bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 1,42 gam Methamphetamine và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số imei 355147804481800; 100.000đ( một trăm ngàn đồng); 01( một) hộp nhựa màu hồng có ghi chữ “ hộp đựng phấn” bên trong có nhiều túi li lon nhỏ và 01(một) hộ chiếu số B0627631 mang tên Vũ Thị N.
Đối với 1,42( Một phẩy bốn mươi hai) gamMethamphetamine thu giữ, trích mẫu 0,16( Không phẩy mười sáu) gam để tiến hành giám định. Số vật chứng còn lại 1,26 (Một phẩy hai mươi sáu) gam Methamphetamine. Đây là chất ma túy nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với 01( một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số imei 355147804481800 và 100.000đ(Một trăm ngàn đồng); 01(một) hộ chiếu số B0627631 mang tên Vũ Thị N là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo là phù hợp với điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, bị cáo còn phải thi hành án về khoản tiền án phí, nên cần tạm giữ chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số imei 355147804481800 và 100.000đ (một trăm ngàn đồng) để đảm bảo công tác thi hành án.
Đối với 01( một) hộp nhựa màu hồng có ghi chữ “ hộp đựng phấn” bên trong có nhiều túi li lon nhỏ là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Do bị cáo bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố bị cáo Vũ Thị N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’.
Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Thị N 01(một) năm 09( chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 16/9/2019.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 1,26 (Một phẩy hai mươi sáu) gam Methamphetamine được niêm phong trong một bì thư in sẵn, trên một mặt bì thư có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Vũ Thị N, có hành vi phạm tội về ma túy, phát hiện (thu giữ) ngày 16/9/2019 tại tổ 08, phường Phố Mới, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”; 01(một) hộp nhựa màu hồng có ghi chữ “ hộp đựng phấn” bên trong có nhiều túi li lon nhỏ.
Tạm giữ 01(một)chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone,có số imei 355147804481800 và 100.000đ( một trăm ngàn đồng) của bị cáo Vũ Thị N để đảm bảo công tác thi hành án.
Trả lại cho bị cáo 01(một) hộ chiếu số B0627631 mang tên Vũ Thị N (Vật chứng được thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2019).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vũ Thị N phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".
Bản án 109/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 109/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về