Bản án 108/2020/HS-ST ngày 25/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 25 tháng 8 năm 2020, tại: Trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 130/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: PHẠM V (Tên gọi khác: Bi), sinh năm 1997, tại Gia Lai. Nơi cư trú: Tổ 02, phường P, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn P , Sinh năm 1962 và bà: Trần Thị Kim N, Sinh năm 1962. Bị cáo có 04 anh, chị ruột; lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1991. Bị cáo có vợ là chị: Bùi Thị H, Sinh năm 1996 và có 01 người con, Sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Phạm V bị tạm giữ từ ngày 30/4/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Pleiku. Có mặt.

- Người chứng kiến:

- Ông Nguyễn H, sinh năm 1962; địa chỉ: Tổ 06, phường T, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm V là người có sử dụng ma túy. Qua quen biết ngoài xã hội, V biết được đối tượng tên L (không rõ nhân thân, lai lịch) có bán ma túy ở khu vực đường Wừu, phường Ia Kring, thành phố Pleiku. Vào khoảng 12 giờ 20 phút ngày 30-4- 2020, V thuê xe ôm đi từ nhà đến khu vực trước số nhà 151 đường Wừu, phường Ia Kring, thành phố Pleiku thì gặp L. Tại đây, V hỏi mua của L 01 (một) gói ma túy Khay với giá 600.000 đồng và 01 (một) gói ma túy loại thuốc Lắc với giá 1.200.000 đồng, L đồng ý và bán cho V số ma túy nêu trên. Sau khi mua được ma túy, V thuê xe ôm đi đến khách sạn Phương Nam ở đường Nguyễn Du, Tổ 06, phường Tây Sơn, thành phố Pleiku, để thuê phòng sử dụng ma túy. Khi đi đến trước số nhà 48 đường Nguyễn Du, Tổ 06, phường T, thành phố Pleiku, V xuống xe đi bộ thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P phối hợp với Công an phường T phát hiện bắt quả tang và thu giữ trên tay của V đang cầm 01 (một) gói nilon bên trong có chứa chất màu trắng, dạng cục, bột và 01 (một) gói nilon bên trong chứa chất màu xanh, dạng cục, bột. Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ của V 01 chiếc điện thoại di động (không có nhãn hiệu) màu xám đen, kèm sim, số seri: 898404.8000027.828407.

Bị cáo Phạm V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Qua trưng cầu giám định, tại bản Kết luận giám định số 398/KLGĐ ngày 08/5/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng, dạng tinh thể, bột trong 01 gói nilon, trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,3313 gam; chất màu xanh, dạng cục, bột trong 01 gói nilon, trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 1,5336 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số: 131/CT-VKS ngày 06-8-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Phạm V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phạm V và đề nghị Hội đồng xét xử;

Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Phạm V với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 30-4-2020.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) bì công văn số số: 398/PC09 ngày 08-5-2020, có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai. (có các chữ ký Nguyễn Đại Hải, Bùi Sĩ Thà, Lê Tiến Long).

Đối với 01 điện thoại di động (không có nhãn hiệu) màu xám đen, kèm sim có số seri: 898404.8000027.828407 là tài sản bị cáo V, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc ổn định và không có tài sản gì nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án:

Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận về việc làm của mình, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình chăm sóc vợ và con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, phù hợp với các tài liệu, biên bản phạm tội quả tang cùng với các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Phạm V phạm tội như sau:

Vào khoảng 12 giờ 20 phút ngày 30-4-2020, tại khu vực trước số nhà 151 đường Wừu, phường Ia Kring, thành phố Pleiku, Phạm V đã mua 1,5336 gam ma túy, loại MDMA với giá 1.200.000 đồng và 0,3313 gam ma túy, loại Ketamine với giá 600.000 đồng của đối tượng tên L (không rõ nhân thân, lai lịch). Sau đó, Phạm V cầm số ma túy này trên tay rồi đem đến khách sạn Phương Nam, Tổ 06, phường Tây Sơn, thành phố Pleiku, với mục đích thuê phòng để sử dụng. Khi V đi đến trước số nhà 48 đường Nguyễn Du, Tổ 06, phường Tây Sơn, thành phố Pleiku thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku phát hiện, bắt quả tang và thu giữ cùng tang vật.

Tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b)...

i) Có hai chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

Ma tuý là chất độc, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi vào cơ thể con người có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và tâm sinh lý của con người, làm hạn chế hoạt động của não bộ và gây ức chế hệ thần kinh. Sự nghiện ngập là biểu hiện của trạng thái ngộ độc mãn tính do chất ma tuý gây ra, làm tổn thương cho bản thân. Ma tuý gây tác hại về nhiều mặt trong đời sống, xã hội. Sử dụng ma tuý làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, gây xói mòn đạo lý, kinh tế, xã hội.

Bị cáo Phạm V là người đã trưởng thành, có trình độ học vấn nhất định, lẽ ra bị cáo phải nhận thức được tác hại và hậu quả của sử dụng ma túy. Nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo đã tàng trữ 1,5336 gam ma túy, loại MDMA và 0,3313 gam ma túy, loại Ketamine với mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, góp phần tiếp tay gieo rắc nạn dịch HIV-AIDS và những tệ nạn xã hội khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo cải tạo bản thân tiến bộ là cần thiết.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 (một) bì công văn số: 398/PC09 ngày 08-5-2020 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai. (có các chữ ký Nguyễn Đại Hải, Bùi Sĩ Thà, Lê Tiến Long). Xét đây là tang vật của vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động (không có nhãn hiệu) màu xám đen, kèm sim số có seri: 898404.8000027.828407. (điện thoại cũ, đã qua sử dụng, Chi cục THADS không kiểm tra tình trạng bên trong). Xét đây là tài sản bị cáo V, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Mục đích của bị cáo mua ma túy về để sử dụng, bị cáo không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với đối tượng tên L mà bị cáo khai là người bán ma túy cho bị cáo vào ngày 30/4/2020. Do bị cáo V không biết nhân thân, lai lịch của Lộc; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được đối tượng Lộc nên chưa có căn cứ để điều tra, xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau là có căn cứ.

[7] Về án phí: Bị cáo Phạm V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phạm V.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phạm V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 30-4-2020.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử: Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) bì công văn số: 398/PC09 ngày 08-5-2020 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai. (có các chữ ký Nguyễn Đại Hải, Bùi Sĩ Thà, Lê Tiến Long).

Trả lại cho bị cáo Phạm V 01 chiếc điện thoại di động (không có nhãn hiệu) màu xám đen, kèm sim số có seri: 898404.8000027.828407.(điện thoại cũ, đã qua sử dụng, Chi cục THADS không kiểm tra tình trạng bên trong).

(Tất cả theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14-8-2020 giữa Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Pleiku,tỉnh Gia Lai).

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Phạm V phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015;

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2020/HS-ST ngày 25/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:108/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về