Bản án 107/2019/HSST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 107/2019/HSST NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 30 tháng 7 năm 2019. Tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 100/2019/HSST ngày 11 tháng 7 năm 2019; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2019/QĐ-HSST ngày 17 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: PHẠM VĂN H. Sinh ngày 29 tháng 4 năm 2000. Nơi sinh: Lâm Đồng. Nơi ĐKNKTT: Thôn S, xã H, huyện Lâm Hà, Lâm Đồng. Chỗ ở: Thôn S, xã H, huyện Lâm Hà, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông: Phạm Đức T, sinh năm 1972; Con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1974. Hiện ở tại: Thôn S, xã H, huyện Lâm Hà, Lâm Đồng. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt ngày 20/3/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn H là đối tượng sử dụng ma túy (thuốc lắc) từ cuối năm 2018. Ngày 17/3/2019, H đến quán bar Rain, ở số 01- Đường P, Phường B, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng gặp và mua của một người đàn ông tên Ba (không rõ lai lịch, địa chỉ) 10 viên thuốc lắc với giá 2.500.000 đồng. Sau khi mua được thuốc, H sử dụng tại chỗ 01 viên, còn lại 09 viên H bỏ vào một túi nilon và cất giấu vào trong người để sử dụng dần. Ngày 19/3/2019, do chủ nhà trọ tại đường Đoàn Thị Điểm, Phường 4, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng không cho thuê trọ nữa nên Phạm Văn H cùng với Nguyễn Trần Duy, Trần Thanh Tuấn, Võ Văn Giáp chuyển đến phòng trọ số 26, thuộc dãy nhà trọ tại số 107B - Đường T, Phường B, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng của Phạm Nữ Hoàng Uyên và Nguyễn Quốc Anh, là bạn của H để ở nhờ. Khi chuyển đến phòng trọ của Uyên và Quốc Anh, H có mang theo 09 viên thuốc lắc nêu trên và cất giấu trên gác xép. Đến 09 giờ ngày 20/3/2019, Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng kiểm tra nhà trọ nói trên thì phát hiện, bắt quả tang và thu giữ: 01 gói nilon bên trong đựng 09 viên nén màu xanh lá cây, trên mặt các viên nén này có in hình con thỏ; 01 gói nilon bên trong đựng 02 viên nén (một viên màu xanh lá cây, 01 viên màu xanh da trời) trên sàn gác xép; 01 gói nilon bên trong đựng lá thực vật khô; 03 gói nilon bên trong đựng chất ở dạng tinh thể màu trắng; 01 hộp nhựa màu đen, bên trong đựng 27 viên nén có hình dạng và màu sắc khác nhau tại vách tường trong phòng vệ sinh.

Qua đấu tranh, Phạm Văn H khai nhận gói nilon bên trong đựng 09 viên nén màu xanh, một mặt có hình con thỏ là của H cất giấu để sử dụng; Nguyễn Quốc Anh khai nhận 01 gói nilon đựng lá thực vật khô màu xanh là cần sa của Quốc Anh tàng trữ để sử dụng. Số viên nén còn lại; chất ở dạng tinh thể màu trắng; 01 cân điện tử và 100 gói nilon màu trắng chưa đựng gì quá trình điều tra không xác định được là của ai.

Tại Kết luận giám định số 759/GĐ-PC09 ngày 25/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu 09 viên nén màu xanh đựng trong 01 túi nilon được niêm phong gởi giám định có khối lượng 2,7602 gam là MDMA. MDMA là chất ma túy, nằm trong danh mục I, STT 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Kết luận giám định số 2183/C09B ngày 28/3/2019 của Phân viện kỹ thuật hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu 01 gói nilon bên trong đựng lá thực vật khô đước niêm phong gởi giám định có khối lượng 1,7905 gam là cần sa. Cần sa là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 45 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Số cần sa Nguyễn Quốc Anh tàng trữ chưa đủ khối lượng để xử lý hình sự nên Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng đã Quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Quốc Anh về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại Cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 10/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố Phạm Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn H không thắc mắc hay khiếu nại gì đối với Kết luận của Cơ quan giám định nói trên và khai nhận vào tối ngày 17/3/2019 bị cáo đã có hành vi mua của một đối tượng tên Ba (không rõ nhân thân, lai lịch) tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng 2.500.000 đồng, được 10 viên nén, là chất MDMA, sau đó sử dụng một viên, số còn lại bị cáo đang tàng trữ với mục đích để tiếp tục sử dụng. Đến 09 giờ ngày 20/3/2019, khi bị cáo đang tàng trữ 09 viên nén đã mua tại nhà trọ ở đường Đường T, Phường B, thành phố Đà Lạt thì Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng kiểm tra, bắt giữ và thu giữ 09 viên ma túy là chất MDMA, có khối lượng 2,7602 gam nói trên với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo tàng trữ 2,7602 gam MDMA, là chất ma túy, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Phạm Văn H từ 30 đến 36 tháng tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và xử lý theo qui định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng:

Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn H:

Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy, trong đó có chất MDMA, một loại ma túy tổng hợp là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo tàng trữ 2,7602 gam MDMA với mục đích để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phạm Văn H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo Phạm Văn H tàng trữ ma túy với khối lượng 2,7602 gam MDMA. Không thuộc tình tiết định khung tăng nặng nào được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo qui định tại điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về áp dụng hình phạt bổ sung:

Xét quá trình điều tra cho đến nay không xác định được bị cáo có thu nhập gì từ việc Tàng trữ trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Các loại vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có:

+ Hai phong bì đã được niêm phong, trong đựng bao gói vật chứng trước khi giám định và 100 túi nilon loại nhỏ, xét không có giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy.

+ Một điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen (đã qua sử dụng), bên trong có gắn sim số 0812317260, là công cụ bị cáo H có sử dụng vào việc liên lạc để mua bán ma túy và 01 cân điện tử màu đen, có liên quan đến việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

+ Một Chứng minh nhân dân mang tên Phạm Nữ Hoàng Uyên, là giấy tờ tùy thân của chị Hoàng Uyên (HKTT tại: Xóm 3, thôn Tân Lập, xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, Lâm Đồng), không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho chị Uyên.

Về án phí:

Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] . Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] . Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Văn H 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/3/2019.

[3]. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu để tiêu hủy: 02 phong bì đã niêm phong, bên trong đựng bao gói vật chứng trước khi giám định và 100 túi nilon loại nhỏ, có kích thước khác nhau.

+ Tịch thu để sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen (đã qua sử dụng), bên trong có gắn sim số 0812317260, mặt sau không có nắp và 01 cân điện tử, màu đen, có các ký tự: 1*CR2032 Battery.

+ Trả lại cho chị Phạm Nữ Hoàng U (HKTT tại: Xóm 3, Thôn L, xã H, huyện Đức Trọng, Lâm Đồng): 01 Chứng minh nhân dân mang tên Phạm Nữ Hoàng Uyên (Các vật chứng có đặc điểm cụ thể như mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/7/2019 giữa Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

[4]. Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về lệ phí, án phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2019/HSST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về