Bản án 107/2019/HSST ngày 24/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 107/2019/HSST NGÀY 24/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 115/2019/HSST, ngày 30-8-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2019/QĐXXST-HS ngày 13-9-2019 đối với bị cáo:

Cà Văn N; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1982; tại xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản M, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 3/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Cà Văn N; sinh năm 1919 và bà Cà Thị B (đã chết); bị cáo có vợ: Cà Thị Đ, sinh năm 1980 và 03 con, lớn nhất 17 tuổi, nhỏ 10 nhất tuổi; tiền sự: Ngày 27-5-2016 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 ( mười tám) tháng; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 20-6-2019, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ, ngày 20-6-2019, Tổ công tác Ban Công an xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản M, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Cà Văn N, trú tại: Bản M, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm: 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa một viên nén hình trụ màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp (N khai là ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,04 gam và một ít chất bột cục màu trắng hồng nghi là Heroine và ma túy tổng hợp trộn lẫn( N khai là Heroine và ma túy tổng hợp trộn lẫn), có khối lượng 0,09 gam. Rút toàn bộ 0,04 gam viên nén hình trụ tròn màu hồng ký hiệu N1 và toàn bộ 0,09 gam chất bột màu trắng hồng ký hiệu N2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số: 1132/KLMT, ngày 24-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “Mẫu gửi giám định ký hiệu N1 là chất ma túy, loại chất Methamphetamin, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,04 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu N2 là chất ma túy, loại chất Heroine và Methamphetamin, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam.Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là: 0,04 gam loại Methamphetamine và 0,09 gam loại Heroine và methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Cà Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 9 giờ 30 phút, ngày 20-6-2019, Cà Văn N đi bộ một mình từ nhà ở bản M, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La lên nhà nương của gia đình ở bản M, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Trên đường đi thì Cà Văn N gặp một người đàn ông dân tộc Thái (Cà Văn N không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) và hỏi mua được một gói ma túy gói bằng ni lon màu trắng bên trong có chứa một ít Heroin và ma túy tổng hợpvới giá 100.000đ. Sau khi mua được ma túy, Cà Văn N cất gói ma túy vào túi quần đằng trước bên trái đang mặc rồi tiếp tục đi lên nhà nương của gia đình. Khi Cà Văn N đi được khoảng 50 mét thì gặp tổ công tác Công an xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Cà Văn N có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng như đã nêu.

Bản cáo trạng số: 115/CT-VKS, ngày 30-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Cà Văn N về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Cà Văn N về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Cà Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Cà Văn N mức án từ 18 tháng đến 22 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20-6-2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Cà Văn N.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn N.

Ý kiến của bị cáo Cà Văn Niến: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Và không có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Ngày 20-6-2019, Cà Văn N; trú tại: Bản M, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,04 gam, Methamphetamine và 0,09 gam Heroine trộn lẫn với Methamphetamine. Tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 0,13 gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo Cà Văn N tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Cà Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định :

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)………….

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...............................

i) Có 2 chất ma túy chở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ b đến h khoản này.”

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Cà Văn N, tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Cà Văn N.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Cà Văn N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Song nhân thân đã có một tiền sự chưa hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính là nhân thân xấu, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo Cà Văn Niến đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Cà Văn N còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy Cà Văn N khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái (Cà Văn N không biết họ tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) tại bản M, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 20-6-2019 với giá 100.000 đ. Do chỉ có lời khai duy nhất của Cà Văn N, ngoài ra không có chứng cứ nào khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.

[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ. Xét không cón giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

Vận dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[4]. Về án phí: Gia đình bị cáo Cà Văn Ncó giấy chứng nhận hộ nghèo năm 2019. Do vậy Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn Niến. Vận dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Cà Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Cà Văn N 20 ( hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20-6-2019 (là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiêu hủy một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Cà Văn N. Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 20-6- 2019. 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

4. Về Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn N.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Cà Văn N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2019/HSST ngày 24/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về