Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 02/07/2019 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH N

BẢN ÁN 106/2019/HNGĐ-ST NGÀY 02/07/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 02 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà dân huyện N mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 45/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2019. Về vụ án Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2019/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 6 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019 giữa:

+ Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tr - Sinh năm 1997

Địa chỉ: Thôn Lý Nhân, xã N, huyện N, tỉnh N.

+ Bị đơn: Anh Nguyễn Thế A - Sinh năm 1994

ĐKHKTT: Thôn Lý Nhân, xã N, huyện N, tỉnh N.

Hiện đang chấp hành án tại đội 3, phân trại 4 Trại giam N, Tổng cục VIII Bộ Công An.

Tại phiên tòa có mặt chị Tr, vắng mặt anh Thế A

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện lập ngày 28/02/2019 cũng như lời khai của chị Nguyễn Thị Tr trong quá trình giải quyết trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Thế A vào tháng 4/2015, trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện N, tỉnh N. Sau khi kết hôn chị và anh Thế A chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 6/2015 thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm sống, anh Thế A chơi bời không quan tâm đến gia đình nên vợ chồng thường xảy ra cãi chửi nhau. Từ tháng 7/2015 đến nay chị và anh Thế A sống ly thân nhau. Đến năm 2016 anh Nguyễn Thế A vi phạm pháp luật và bị Tòa án xử phạt 13 năm tù và hiện đang cải tạo tại trại giam N, tỉnh N. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anhThế A không còn nên chị xin được ly hôn anh Nguyễn Thế A. Về con chung và tài sản chung giữa chị và anh Nguyễn Thế A không có nên chị không yêu cầu xem xét giải quyết về tài sản và con chung. Về án phí dân sự sơ thẩm chị đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa anh Nguyễn Thế A vắng mặt nhưng anh Thế A có lời khai trình bày đúng như lời khai của chị Nguyễn Thị Tr về quá trình kết hôn và sống chung giữa anh và chị Tr. Sau khi kết hôn anh và chị Tr sống chung hòa thuận được một thời gian ngắn đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xảy ra cãi chửi nhau. Hai bên gia đình đã khuyên giải nhưng mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện do vậy A chán nản chơi bời dẫn đến vi phạm pháp luật và hiện đang cải tạo tại trại giam N. Từ khi anh đi chấp hành án đến nay thì chưa một lần chị Tr thăm nuôi anh. Nay chị Tr có đơn xin ly hôn anh thì anh xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị Tr không còn nên anh nhất trí thuận tình ly hôn. Con chung và tài sản chung giữa anh và chị Tr không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung và tài sản chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Về tố tụng: qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến xét xử tại phiên toà hôm nay Thẩm Phán thụ lý giảỉ quyết cũng như Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Tr và anh Nguyễn Thế A; Về án phí dân sự sơ thẩm đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chị Nguyễn Thị Tr phải nộp theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà, căn cứ vào lời trình bày của đương sự và trên cơ sở trA luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Tr và anh Nguyễn Thế A đều đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã N, huyện N, tỉnh N. Nay chị Tr có đơn xin ly hôn anh Thế A và Tòa án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết vụ án là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa anh Nguyễn Thế A vắng mặt nhưng anh Thế A đã được tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên tòa lần thứ hai, vì vậy Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng xét xử vắng mặt anh Thế A là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung: Cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Tr và anh Nguyễn Thế A được tổ chức kết hôn vào tháng 4/2015, trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã N là một hôn nhân tự do, tiến bộ và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn chị Tr và anh Thế A chung sống hòa thuận được một thời gian ngắn đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai bên không hợp tính nhau nên trong cuộc sống thường xảy ra cãi chửi nhau. Hai bên gia đình đã nhiều lần khuyên giải nhưng quan hệ tình cảm vợ chồng giữa chị Tr và anh Thế A không được cải thiện. Từ tháng 7/2015 đến nay chị Tr và anh Thế A đã sống ly thân nhau. Trên thực tế mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Tr và anh Thế A đã kéo dài và ngày một trầm trọng, hôn nhân đã tan vỡ, nay chị Tr xin ly hôn anh Thế A và anh Thế A cũng nhất trí nên chấp nhận là phù hợp.

[3] Về con chung và tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Tr và anh Nguyễn Thế A đều khai thống nhất xác định anh chị không có con chung, tài sản chung và không yêu cầu giải quyết về con chung, tài sản chung nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm chị Nguyễn Thị Tr phải nộp theo quy định của pháp luật.

[5] Thấy đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện N về việc giải quyết vụ án là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ các Điều 147; 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ các Điều 6; 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1- Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Tr và anh Nguyễn Thế A.

2- Án phí dân sự sơ thẩm chị Nguyễn Thị Tr phải nộp 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị Nguyễn Thị Tr đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số: BB/2012/06407 ngày 18/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghĩa Hưng. Chị Nguyễn Thị Tr đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị Tr, vắng mặt anh Thế A. Báo cho người có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 02/07/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:106/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về