TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 106/2019/DS-ST NGÀY 15/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 3 năm 2019, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 466/2018/TLST-DS ngày 17/8/2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST-DS ngày 04/3/2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Việt Nam T
Địa chỉ: đường H, phường H, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: bà Nguyễn Ngọc Yến O - nhân viên Ngân hàng.
Địa chỉ: khu dân cư L, phường L, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Bà Ngô Thị H, sinh năm: 1977.
Địa chỉ: ấp 3, xã H, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam T có người đại diện hợp pháp là Nguyễn Ngọc Yến O trình bày:
Vào ngày 10/7/2013, bà Ngô Thị H có ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP Việt Nam T với số tiền vay là 42.000.000 (bốn mươi hai triệu đồng), thời hạn vay 18 tháng, mục đích vay tiêu dùng, hình thức trả góp 17 tháng đầu mỗi tháng trả 3.479.000 đồng (ba triệu bốn trăm bảy mươi chín nghìn đồng), tháng cuối cùng trả 3.473.000 đồng (ba triệu bốn trăm bảy mươi ba nghìn đồng). Theo như thỏa thuận thì bà H có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng số tiền 62.616.000 đồng (sáu mươi hai triệu sáu trăm mười sáu nghìn đồng).
Trong quá trình thực hiện hợp đồng thì bà H có thanh toán cho ngân hàng với 4 lần với tổng số tiền 14.916.000 đồng (mười bốn triệu chín trăm mười sáu nghìn đồng). Từ ngày 10/4/2018, bà H không thanh toán cho ngân hàng, mặc dù đã được nhiều lần ngân hàng yêu cầu thanh toán số tiền trên nhưng bà H không trả. Đây là nợ cá nhân của bà Hạnh, ngân hàng chỉ yêu cầu cá nhân bà H trả nợ.
Nay bà đại diện cho ngân hàng yêu cầu bà H trả cho ngân hàng số tiền gốc là 34.354.778 đồng (ba mươi bốn triệu ba trăm năm mươi bốn nghìn bảy trăm bảy mươi tám đồng) và tiền lãi là 13.345.222 đồng (mười ba triệu ba trăm bốn mươi lăm nghìn hai trăm hai mươi hai đồng). Tổng số tiền bà ị H phải trả cho ngân hàng tổng cộng là 47.700.000 đồng (bốn mươi bảy triệu bảy trăm nghìn đồng), trả làm một lần ngay khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Bị đơn bà Ngô Thị H trình bày:
Vào ngày 10/7/2013, bà có ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP Việt Nam T với số tiền vay là 42.000.000 đồng (bốn mươi hai triệu đồng), thời hạn vay 18 tháng, mục đích tiêu dùng, hình thức trả góp 17 tháng đầu mỗi tháng trả 3.479.000 đồng (ba triệu bốn trăm bảy mươi chín nghìn đồng), tháng cuối cùng trả 3.473.000 đồng (ba triệu bốn trăm bảy mươi ba nghìn đồng). Sau khi ký hợp đồng thì bà có nhận được số tiền 42.000.000 đồng (bốn mươi hai triệu đồng). Theo như thỏa thuận thì số tiền bà phải trả là 62.616.000 đồng (sáu mươi hai triệu sáu trăm mười sáu nghìn đồng) (bao gồm gốc và lãi).
Trong quá trình vay thì bà đã trả được cho Ngân hàng số tiền 14.916.000 đồng (mười bốn triệu chín trăm mười sáu nghìn đồng).
Nay đối với yêu cầu khởi kiện của ngân hàng trả số tiền gốc là 34.354.778 đồng (ba mươi bốn triệu ba trăm năm mươi bốn nghìn bảy trăm bảy mươi tám đồng) và tiền lãi là 13.345.222 đồng (mười ba triệu ba trăm bốn mươi lăm nghìn hai trăm hai mươi hai đồng) thì bà đồng ý trả nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên bà xin được trả chậm hàng tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho đến khi hết số nợ trên. Đây là nợ cá nhân của bà, chồng bà không liên quan đến, bà sẽ có trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam T khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với bị đơn bà Ngô Thị H, bà H có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh nên căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Về áp dụng pháp luật: Do hợp đồng dân sự của các bên đương sự thực hiện vào thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực nên Tòa án áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết vụ án.
[4] Thời hiệu khởi kiện: Căn cứ vào thời điểm bà Ngô Thị H ngừng thanh toán các khoản theo thỏa thuận cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Tbắt đầu vào ngày 10/4/2018. Ngày 18/7/2018, Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam T có đơn khởi kiện nộp tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh. Thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng dân sự được xác định là 03 năm kể từ ngày quyền và lợi ích bị xâm phạm theo quy định tại Điều 429, 688 Bộ luật dân sự năm 2015 nên việc khởi kiện là vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện.
[5] Về nội dung: Ngày 10/7/2013, bà Ngô Thị H có ký hợp đồng tín dụng số 20130710-103021-0002 với Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam T để vay số tiền 42.000.000 đồng (bốn mươi hai triệu đồng). Mục đích vay: tiêu dùng cá nhân với lãi suất 4.59%/ tháng. Theo thỏa thuận tại hợp đồng thì bà Ngô Thị H có trách nhiệm thanh toán số tiền 62.616.000 đồng (sáu mươi hai triệu sáu trăm mười sáu nghìn đồng) (gồm gốc và lãi), trả chậm trong thời gian 18 tháng. Trong 17 tháng đầu bà Ngô Thị H hàng tháng phải thanh toán số tiền 3.479.000 đồng (ba triệu bốn trăm bảy mươi chín nghìn đồng), tháng cuối cùng thanh toán 3.473.000 đồng (ba triệu bốn trăm bảy mươi ba nghìn đồng). Kỳ thanh toán đầu tiên bắt đầu từ ngày 10/8/2013.
Thực hiện hợp đồng bà Ngô Thị H đã nhận đủ số tiền để tiêu dùng nhưng chỉ thực hiện thanh toán cho Ngân hàng được 4 kỳ với số tiền 14.916.000 đồng (mười bốn triệu chín trăm mười sáu nghìn đồng). Kể từ ngày 10/4/2018, bà Ngô Thị H không thanh toán thêm bất kỳ khoản nào nữa cho Ngân hàng dù Ngân hàng đã thực hiện nhiều biện pháp nhắc nhở.
[6] Căn cứ vào đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng với nội dung yêu cầu vay số tiền 42.000.000 đồng (bốn mươi hai triệu đồng), thời hạn vay 18 tháng, mục đích vay tiêu dùng, hình thức trả góp hàng tháng. Hội đồng xét xử xét thấy việc giao dịch giữa các bên là có thật và hợp pháp. Do đó, bà Ngô Thị H phải có trách nhiệm thanh toán các khoản còn nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam T tổng số tiền nợ gốc là 34.354.778 đồng (ba mươi bốn triệu ba trăm năm mươi bốn nghìn bảy trăm bảy mươi tám đồng) và tiền lãi đến hạn là 13.345.222 đồng (mười ba triệu ba trăm bốn mươi lăm nghìn hai trăm hai mươi hai đồng). Tổng số tiền bà H phải trả cho ngân hàng tổng cộng là 47.700.000 đồng (bốn mươi bảy triệu bảy trăm nghìn đồng). Ngân hàng yêu cầu bà H thanh toán số tiền nêu trên một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
[7] Căn cứ án lệ 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 có nội dung: “Đối với các khoản tiền vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này…”. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bà Ngô Thị H tiếp tục chịu lãi phát sinh sau khi xét xử là có cơ sở chấp nhận.
[8] Về án phí: Theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà Ngô Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.385.000 đồng (hai triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn đồng); nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 4, Điều 471, Điều 474 và Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005;
Áp dụng Điều 429 và Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015;
Áp dụng khoản 2 Điều 3 và khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
Áp dụng án lệ số 08/2016 ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao;
Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam T đối với bị đơn bà Ngô Thị H về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Buộc bị đơn bà Ngô Thị H có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Ttổng số tiền nợ gốc là 34.354.778 đồng (ba mươi bốn triệu ba trăm năm mươi bốn nghìn bảy trăm bảy mươi tám đồng) và tiền lãi đến hạn là 13.345.222 đồng (mười ba triệu ba trăm bốn mươi lăm nghìn hai trăm hai mươi hai đồng). Tổng số tiền bà H phải trả cho ngân hàng tổng cộng là 47.700.000 đồng (bốn mươi bảy triệu bảy trăm nghìn đồng), trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Các bên đương sự thực hiện việc giao nhận tiền tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm bà Ngô Thị H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bị đơn bà Ngô Thị Hphải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.385.000 đồng (hai triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn đồng).
- Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí là 3.175.300 đồng (ba triệu một trăm bảy mươi lăm nghìn ba trăm đồng) theo biên lai thu số 0005682 ngày 07/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 106/2019/DS-ST ngày 15/03/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 106/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về