TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 105/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 26 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 86/2019/TLST - HS, ngày 05 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn N - Sinh ngày 20 tháng 9 năm 1994, tại tỉnh Đăk Lăk.
Nơi cư trú: Buôn B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông. Nghề nghiệp: Thợ Sơn; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn D và bà: Đặng Thị Y. Bị cáo có vợ là Phan Thị H và có 01 con, sinh năm 2017. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 08 tháng 01 năm 2019 - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn N là đối tượng nghiện chất ma túy loại Methamphetamine. Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 08/01/2019, N một mình đón xe buýt từ chợ T, huyện C, tỉnh Đắk Lắk lên thành phố B để mua ma tuý về sử dụng. Khi đến khu vực Siêu thị C, đường N, thành phố B, N xuống xe, do không biết địa điểm mua ma tuý nên N hỏi người đàn ông chạy xe thồ (không rõ nhân thân, lai lịch) và được người này chở vào trong đường hẻm (không rõ cụ thể hẻm) trong đường A, thành phố B. Đến nơi, N gặp 01 người nam giới (không rõ nhân thân, lai lịch) đang ngồi trước một ngôi nhà (không rõ cụ thể số nhà) hỏi mua ma tuý của người này với số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm ngàn đồng) thì người này đồng ý. N đưa tiền thì được người này đưa lại cho 01 (một) gói nylon bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể, sau đó N cất gói ma tuý vào trong chiếc găng tay bên trái đang đeo rồi lên xe thồ về lại trạm xe buýt gần khu vực Siêu thị C để đón xe về Đắk Nông. Do chưa đón được xe, bản thân đang lên cơn nghiện nên N đón xe thồ khác đến khu vực Công viên P, phường T, thành phố B vào trong nhà vệ sinh công cộng trong công viên rồi lấy 01 ít ma tuý ra sử dụng, số ma tuý còn lại N để vào trong chiếc găng tay bên trái đang đeo. Đến khoảng 11 giờ 50 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an phường Tân An kiểm tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong chiếc găng tay bên trái N đang đeo 01 gói nylon có chứa chất ma túy và đã được niêm phong theo quy định của pháp luật.
Tại Kết luận giám định số 23/GĐMT – PC09 ngày 14/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,0366 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giam định có khối lượng 0,9598 gam.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của bị cáo đúng như nội dung trên, bị cáo đồng ý với kết luận giám định và không có ý kiến gì.
Bản cáo trạng số: 114/CT-VKS ngày 05/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thanh phô Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn N và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản cáo trạng số 114/CT-VKS ngày 05/4/2019 và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu, tiêu hủy 0,9598 gam Methamphetamine còn lại sau giám định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Vào khoảng 11h50’’ ngày 08/01/2019 tại khu vực Công viên P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 1,0366 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an phường Tân An, thành phố Buôn Ma Thuột, phát hiện bắt quả tang là phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
.......................................................................................................................
c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.
[2] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là rất nguy hiểm và gây tác hại xấu nhiều mặt cho xã hội và ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố B. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước đối với các loại dược chất ma túy. Bị cáo nhận thức được rằng các loại dược chất ma túy thuộc quyền quản lý của Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền và phải tuân theo những trình tự thủ tục nghiêm ngặt, mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy đều bị trừng trị nghiêm khắc. Đồng thời bị cáo cũng biết được rằng chất ma túy là loại chất gây nghiện nặng làm hủy hoại đến sức khỏe của con người và cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội. Chỉ vì thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cho nên đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, nhằm phát huy tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này trong tình hình xã hội hiện nay.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng nào tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tình tiết giảm nhẹ, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên được áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đối với nguồn ma tuý bị cáo Nguyễn Văn N tàng trữ, bị cáo N khai nhận mua của đối tượng nam giới (không rõ nhân thân lại lịch) tại một căn nhà (không rõ đặc điểm, số nhà) ở đường hẻm trong đường A, phường T, thành phố B. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác minh được nhân thân, lai lịch đối tượng trên nên tách ra khỏi vụ án để điều tra, xác minh, làm rõ, xử lý sau.
Đối với hành vi: Sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo N, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.
[4] Về vật chứng: Đối với 0,9598 gam Methamphetamine còn lại sau giám định nên tịch thu tiêu hủy.
[5] Xét quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên đã thi hành các quyết định tố tụng, lấy lời khai của bị cáo và các đương sự khác liên quan trong vụ án là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nên bị cáo không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N 01 (một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 08 tháng 01 năm 2019.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu, tiêu hủy 0,9598 gam Methamphetamine còn lại sau giám định.
(Vật chứng có đặc điểm, số lượng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08 tháng 4 năm 2019 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk).
Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.
Bản án 105/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 105/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về