Bản án 105/2019/DS-ST ngày 11/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 105/2019/DS-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 11 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 239/2019/TLST-DS ngày 28 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp “Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 387/2019/QĐXXST-DS, ngày 29 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại Đ; trụ sở: 35 Hàng V, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức T - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện hợp pháp của ông Phan Đức T: Ông Nguyễn Văn Bé T1 - Chức vụ: Quyền Giám đốc chi nhánh Ngân hàng thương mại Đ. Là đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 906/QĐ-BIDV ngày 25/11/2018).

Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Văn Bé T1: Ông Trương Thanh T2 - Sinh năm 1988. Chức vụ: Chuyên viên khách hàng phòng giao dịch Chợ Mới - Ngân hàng thương mại Đ - Chi nhánh An Giang. Là đại diện ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 530/QĐ-BIDV.AG ngày 10/10/2019).

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện P, tỉnh An Giang (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân T3, sinh năm 1990;

Địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và tờ tụ khai của nguyên đơn do ông Nguyễn Minh C là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 10/01/2014, ông Nguyễn Xuân T3 có ký ký hợp đồng tín dụng số 01/2014/HĐ với Ngân hàng thương mại Đ (gọi tắt là Ngân hàng) để vay số tiền 20.000.000 đồng, mục đích vay tiêu dùng cá nhân, thời hạn vay là 36 tháng, kể từ ngày 10/01/2014 đến hết ngày 10/01/2017, lãi suất cho vay 11,2%/năm, lãi suất được điều chỉnh 06 tháng/lần, theo thông báo của ngân hàng, lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi suất trong hạn. Lịch trả nợ gốc hàng tháng (từ 02/2014 đến 12/2016 trả 560.000.000 đồng/tháng, riêng ngày 10/01/2017 trả 400.000 đồng). Hình thức vay tín chấp.

Sau khi ký kết hợp đồng thì Ngân hàng đã giải ngân cho ông T3 đủ số tiền nói trên theo giấy nhận nợ cùng ngày. Trong quá trình thực hiện hợp đồng thì ông T3 có trả vốn gốc: 10.000.000 đồng, lãi 2.471.401 đồng, tổng cộng 12.471.402 đồng thì ngưng cho đến nay, mặc dù Ngân hàng có nhắc nhở ông T3 nhiều lần nhưng ông vẫn không thực hiện và số nợ này nay đã quá hạn. Nay yêu cầu ông Nguyễn Xuân T3 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền vốn vay còn nợ 10.000.000 đồng, lãi 6.067.004 đồng (tính đến ngày 08/3/2019) và tiền lãi phát sinh trên vốn gốc 10.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 01/2014/HĐ từ ngày 09/3/2019 theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán hết nợ.

Đối với việc xác nhận của đơn vị (Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hiệp), nơi ông T3 công tác tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng số 01/2014/HĐ ngày 10/01/2014 thì phía đơn vị của ông T3 có trách nhiệm đôn đốc, nhắc nhở cán bộ, công nhân viên thuộc Cơ quan, tổ chức mình quản lý có trách nhiệm trả nợ đúng theo thỏa thuận của Hợp đồng tín dụng và Thông báo cho phía Ngân hàng biết khi có cán bộ, công nhân viên chức nghỉ việc hay điều động công tác để Ngân hàng biết để thu hồi nợ đối với những người đã vay vốn tại Ngân hàng nên Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hiệp không có trách nhiệm liên quan trong vụ kiện này và thời điểm ông T3 vay tiền của Ngân hàng thì ông T3 đã có vợ là Lê Thị Diệu, nhưng ông T3 vay tiền của Ngân hàng với tư cách cá nhân, với hình thức tín chấp. Do đó, Ngân hàng không yêu cầu Tòa án đưa Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hiệp và bà Lê Thị Diệu vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, ông T2 đại diện Ngân hàng xác định yêu cầu ông Nguyễn Xuân T3 trả vốn gốc còn nợ 10.000.000 đồng, lãi 7.088.713 đồng (tính đến ngày 10/10/2019) và tiền lãi phát sinh trên vốn gốc 10.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 01/2014/HĐ từ ngày 11/10/2019 theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán hết nợ. Ông T2 xác định do mục đích ông T3 vay tiền của Ngân hàng là để tiêu dùng cá nhân nên Ngân hàng không yêu cầu vợ ông T3 cùng có trách nhiệm liên đới trả nợ cho Ngân hàng.

Bị đơn ông Nguyễn Xuân T3 được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vắng mặt không lý do nên không ghi nhận được ý kiến và hòa giải được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Ngân hàng thương mại Đ khởi kiện ông Nguyễn Xuân T3. Ông T3 có nơi cư trú tại ấp Thị, xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đứng thẩm quyền theo quy định tại Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Bị đơn ông Nguyễn Xuân T3 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T3 là có căn cứ.

[3] Tại phiên tòa hôm nay ông T2 đại diện Ngân hàng yêu cầu ông T3 trả vốn gốc còn nợ 10.000.000 đồng, lãi 7.088.713 đồng (tính đến ngày 10/10/2019) và tiền lãi phát sinh trên vốn gốc 10.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 01/2014/HĐ từ ngày 11/10/2019 theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng cho đến khi ông T3 thanh toán hết nợ. Xét thấy, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu, căn cứ Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

[4] Đối với Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hiệp (gọi tắt là Ủy ban), Hội đồng xét xử nhận thấy, căn cứ theo xác nhận của Ủy ban trong hợp đồng tín dụng mà ông T3 ký kết với Ngân hàng thì phía Ngân hàng chỉ có nghĩa vụ nhắc nhở, đôn đốc cán bộ thuộc quyền quản lý của Cơ quan mình để thực hiện nghĩa vụ với Ngân hàng và Ủy ban cũng không bão lĩnh số tiền vay của cá nhân ông T3 với Ngân hàng. Bên cạnh đó, phía Ngân hàng cũng đề nghị Tòa án không đưa Ủy ban vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Do đó, Tòa án không đưa Ủy ban vào tham gia tố tụng là có cơ sở.

[5] Theo hồ sơ thể hiện ông T3 có vợ là bà Lê Thị Diệu, số nợ của ông T3 phát sinh trong thời kỳ hôn nhân, tuy nhiên theo hợp đồng tín dụng ký kết giữa Ngân hàng với ông T3 thể hiện mục đích ông T3 vay tiền là tiêu dùng cá nhân. Quá trình làm việc và tại phiên Tòa hôm nay Ngân hàng không yêu cầu vợ ông T3 cùng có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho Ngân hàng. Do đó, Tòa án không đưa vợ ông T3 vào tham gia tố tụng là có cơ sở.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, Hợp đồng tín dụng số 01/2014/HĐ ngày 10/01/2014 ký kết giữa Ngân hàng với ông T3 được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các bên, hình thức và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã hội và phù hợp với quy định của pháp luật nên đây là hợp đồng tín dụng hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Căn cứ theo hợp đồng tín dụng đã làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định tại Điều 463, 466 Bộ luật dân sự 2015. Trong quá trình thực hiện hợp đồng phía ông T3 không thực hiện nghĩa vụ trả vốn, lãi suất đúng hạn cho Ngân hàng để phát sinh nợ quá hạn là vi phạm nghĩa vụ của người vay theo hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết. Do đó, việc Ngân hàng khởi kiện ông T3 yêu cầu trả vốn gốc còn nợ 10.000.000 đồng, lãi 7.088.713 đồng (tính đến ngày 10/10/2019), tổng cộng 17.088.713 đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 280, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, Điều 91 và Điều 95 Luật tổ chức tín dụng năm 2010.

[7] Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn có yêu cầu ông T3 phải tiếp tục chịu lãi suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 01/2014/HĐ ngày 10/01/2014 đã ký kết từ ngày 11/10/2019 cho đến khi ông T3 thanh toán xong các khoản nợ với Ngân hàng. Hội đồng xét xử xét thấy, theo hợp đồng tín dụng có thỏa thuận mức lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ quá hạn. Do ông T3 vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận theo hợp đồng tín dụng cho đến khi ông T3 thanh toán xong khoản nợ với Ngân hàng là phù hợp với Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

[8] Từ những phân tích trên, có cơ sở buộc ông Nguyễn Xuân T3 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại Đ số tiền vốn và lãi (tính đến ngày 10/10/2019) tổng cộng 17.088.713 đồng và buộc ông Nguyễn Xuân T3 phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận theo hợp đồng tín dụng cho đến khi ông T3 thanh toán xong khoản nợ với Ngân hàng.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của Ngân hàng được chấp nhận nên ông T3 phải chịu án phí dân sự theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 244 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Các Điều 280, Điều 357, Điều 463, Điều 466 và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015;

- Các Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại Đ đối với ông Nguyễn Xuân T3.

+ Buộc ông Nguyễn Xuân T3 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại Đ số tiền vốn 10.000.000 đồng, lãi 7.088.713 đồng (tính đến ngày 10/10/2019), tổng cộng 17.088.713 đồng (Mười bảy triệu, không trăm T1 mươi T1 nghìn, bảy trăm mười ba đồng).

+ Kể từ ngày 11/10/2019, ông Nguyễn Xuân T3 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 01/2014/HĐ ngày 10/01/2014 cho đến khi ông T3 thanh toán xong khoản nợ với Ngân hàng. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thương mại Đ thì lãi suất mà ông Nguyễn Xuân T3 phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng thương mại Đ theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng thương mại Đ.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: 854.435 đồng (tám trăm năm mươi bốn nghìn, bốn trăm ba mươi lăm đồng) ông Nguyễn Xuân T3 phải chịu.

Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 401.000 đồng (Bốn trăm lẻ một nghìn đồng) cho Ngân hàng thương mại Đ do Ngân hàng thương mại Đ - Chi nhánh An Giang đại diện nhận theo biên lai thu số 0013081 do Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới cấp ngày 22/5/2019.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2019/DS-ST ngày 11/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:105/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về