TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 105/2018/DS-ST NGÀY 09/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong ngày 09 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 281/2017/TLST- DS ngày 26/10/2017 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2018/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 237/2018/QĐST-DS ngày 22/6/2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng V
Địa chỉ: Tầng 1-7 Tòa nhà Đ, Số 72 Phố H, Phường Đ, quận K, Thành phố N
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Lê Thị Kim H, sinh năm 1989
Địa chỉ: 43 Đường Số B, phường L, quận T, Thành phố M(Văn bản ủy quyền ngày 04 tháng 12 năm 2017). (Có mặt)
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1976
Địa chỉ: 692/2/28A Nguyễn T, Tổ M, Ấp N, xã P, huyện B, Thành phố M(Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong Đơn khởi kiện ngày 11 tháng 5 năm 2017, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Lê Thị Kim Hà trình bày:
Ngày 09/8/2014, bà Nguyễn Thị Ngọc T có vay của Ngân hàng V số tiền 21.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 20140816-500001-0047. Lãi suất là3.75%/tháng. Mục đích vay để tiêu dùng cá nhân. Hợp đồng này không thế chấp tài sản. Thực hiện hợp đồng, bà T đã nhận đủ số tiền vay là 21.000.000 đồng.
Theo hợp đồng, bà T phải trả số tiền là 39.447.000 đồng (bao gồm cả nợ gốc và tiền lãi) trong vòng 36 tháng theo phương thức trong 35 tháng đầu mỗi tháng trả 1.073.000 đồng, tháng cuối cùng trả 1.892.000 đồng.
Trả tiền hàng tháng vào ngày thứ 01, bắt đầu trả từ ngày 01/10/2014 cho đến khi hết nợ.
Quá trình vay nợ, bà T đã trả cho Ngân hàng được 10 lần với tổng số tiền là 10.730.000 đồng.
Kể từ ngày 22/7/2015 đến nay, bà T không trả tiền cho nguyên đơn, do vậy Ngân hàng V khởi kiện và yêu cầu Tòa án buộc bà T phải chịu trách nhiệm cá nhân trả số tiền còn nợ là 28.230.678 đồng (trong đó nợ gốc là 17.940.791 đồng và tiền lãi tính đến ngày 28/7/2017 là 10.289.887 đồng). Ngân hàng V không yêu cầu tính lãi phát sinh kể từ ngày 28/7/2017 đến ngày xét xử.
Phương thức thành toán: Trả làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Bà Nguyễn Thị Ngọc T là bị đơn, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho bà Nguyễn Thị Ngọc T nhưng bà T đều không đến Tòa án để làm việc hoặc có văn bản phản hồi ý kiến gửi cho Tòa án.
Tại phiên tòa:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như đã trình bày ở trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến như sau:
Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và củaHội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của pháp luật, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các vản bản tố tụng.
Việc đưa vụ án ra xét xử đúng thời gian, địa điểm theo luật định; Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án:
{1} Ngân hàng V khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Ngọc T phải trả cho Ngân hàng V số tiền nợ còn thiếu là 28.230.678 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 20140816- 500001-0047 ngày 09/8/2014. Đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng tín dụng. Bà Nguyễn Thị Ngọc T cư trú tại huyện Nhà Bè nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
{2} Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc T mặc dù đã được Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng để tiếp cận công khai thu thập chứng cứ và hòa giải cũng như tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà Nguyễn Thị Ngọc T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về yêu cầu của các đương sự:
{3} Đối với yêu cầu của Ngân hàng V yêu cầu bà T phải trả số tiền nợ tính đến ngày 28/7/2017 là 28.230.678 đồng. Trả một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.Hội đồng xét xử xét:
{4} Căn cứ Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số 20140816-500001-0047 ngày 09/8/2014, Bảng sao kê chứng từ giải ngân có đủ cơ sở kết luận bà Nguyễn Thị Ngọc T có vay của Ngân hàng V số tiền 21.000.000 đồng. Lãi suất cho vay là 3.75%/tháng là phù hợp quy định tại Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận và quy định lãi suất quá hạn theo Điều 11 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001.
Kể từ ngày 22/7/2015 đến nay, bà Nguyễn Thị Ngọc T không trả tiền cho nguyên đơn. Như vậy, bà Nguyễn Thị Ngọc T đã vi phạm về nghĩa vụ thanh toán, thời hạn thanh toán được quy định trong hợp đồng tín dụng số 20140816-500001- 0047 mà hai bên đã ký kết ngày 09/8/2014. Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định “Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng”. Trong trường hợp này, bà Nguyễn Thị Ngọc T là bên đã vi phạm về nghĩa vụ thanh toán và thời hạn thanh toán trong hợp đồng tín dụng. Vì vậy, Ngân hàng V yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Ngọc T phải trả một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật tổng cộng số tiền là 28.230.678 đồng bao gồm nợ gốc và lãi trong hạn tính đến ngày 28/7/2017 là hoàn toàn có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.Ghi nhận việc Ngân hàng V không yêu cầu tính lãi phát sinh kể từ ngày 28/7/2017.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,Điều 91, Điều 146, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự;
Căn cứ Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
Căn cứ Điều 11 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001;
Căn cứ Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhànước;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hộikhóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016;
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu trách nhiệm cá nhân trả cho Ngân hàng V số tiền 28.230.678 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 20140816-500001-0047 ngày09/8/2014 (bao gồm: Bao gồm: Nợ gốc là 17.940.791 đồng và lãi tính đến ngày 28/7/2017 là 10.289.887 đồng.). Phương thức thanh toán trả làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ghi nhận việc nguyên đơn Ngân hàng V không yêu cầu tính lãi phát sinh kể từ ngày 28/7/2017.
Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật mà Nguyễn Thị Ngọc T không thanh toán khoản tiền nợ nêu trên thì Nguyễn Thị Ngọc T tiếp tục phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết.
2/Án phí dân sự sơ thẩm là 1.411.534 đồng do bà Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu.
Trả lại cho Ngân hàng V toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 705.767 đồng theo Biên lai thu số 0007763 ngày 22 tháng 5 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
4/ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 105/2018/DS-ST ngày 09/07/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 105/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về