Bản án 104/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN - TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 104/2020/HS-ST NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 105/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên bị cáo:

1.1/ Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 tại tỉnh N; hộ khẩu thường trú: Xóm 2, xã K, huyện Y, tỉnh N; chổ ở trước khi bị bắt: Phường B, thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh B1; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N1, sinh năm 1972 và bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1974; vợ tên Vi Thị Hồng L, sinh năm 1995; bị cáo có 01 người con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/3/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh N xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo với thời gian thử thách 18 tháng về tội “Chống người thi hành công vụ”; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2019, có mặt tại phiên tòa.

1.2/ Hứa Văn L1, sinh năm 1995 tại tỉnh C; hộ khẩu thường trú: Thôn 17, xã E, huyện E1, tỉnh Đ1; chổ ở trước khi bị bắt: Ấp 1, xã H1, huyện N1, tỉnh Đ2; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Văn T1, sinh năm 1969 và bà Hoàng Thị K, sinh năm 1970; vợ tên Triệu Thị H2, sinh năm 1995; bị cáo có 01 người con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2019, có mặt tại phiên tòa.

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2.1/ Bà Vi Thị S, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn K1, xã Đ2, huyện Đ3, tỉnh T, vắng mặt.

2.2/ Ông Bùi Huy Th, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn K1, xã Đ2, huyện Đ3, tỉnh T, vắng mặt.

2.3/ Ông Lê Văn Th1, sinh năm 1999; địa chỉ: Xóm 6, xã K, huyện Y, tỉnh N, vắng mặt.

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn Triệu, sinh năm 1990, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 10 phút ngày 28/12/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã (nay là thành phố) Thuận An phối hợp với Công an phường Bình Hòa tiến hành tuần tra trên địa bàn phường Bình Hòa, thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương thì phát hiện đối tượng Hứa Văn L1 đang điều khiển xe mô tô biển số 17B3 -405.44 chở Nguyễn Văn H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, đối tượng H và L khai nhận bản thân có sử dụng ma túy đá, đồng thời H giao nộp 02 gói ni lon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (H và L khai nhận đó là ma túy đá). Do đó lực lượng công an lập biên bản, thu giữ, niêm phong tang vật, đưa H và L đến trụ sở công an làm việc.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn H và Hứa Văn L1 khai nhận:

Hứa Văn L1 và Nguyễn Văn H là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 23 giờ ngày 27/12/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy nhưng H không biết chổ mua nên đã đưa L số tiền 400.000 đồng và L điều khiển xe mô tô biển số 17B3 – 405.44 chở H cùng đi mua ma túy. Khi đến đoạn đường D7, KDC Vietsing, thuộc khu phố 4, phường An Phú, thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương, L dừng xe đi bộ đến gặp đối tượng tên Hoàng (không rõ nhân thân, lai lịch), mua 02 gói ma túy đá với giá 400.000 đồng, sau đó đưa cho H cất dấu trong người rồi L tiếp tục điều khiển xe mô tô chở H đi tìm chỗ để sử dụng thì bị phát hiện và bắt giữ.

Qua kiểm tra tại trung tâm Y tế thị xã (nay là thành phố) Thuận An ngày 28/12/2019 xác định: Nguyễn Văn H, Hứa Văn L1 có nghiện ma túy loại Methamphetamine.

Tang vật thu giữ gồm:

- 02 túi nylon hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi ma túy đá).

- 01 xe mô tô biển số 17B3 -405.44.

Bản kết luận giám định số 951 ngày 03/01/2020 của Phòng Kỹ Th1 hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: 02 túi nylon hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong, bên ngoài bì thư có chữ ký người bị bắt Nguyễn Văn H và Hứa Văn L1, chữ ký cán bộ niêm phong Thái Ngọc Tân và hình dấu đỏ của Công an phường Bình Hòa, thị xã (nay là thành phố) Thuận An có khối lượng: M1 = 0,1346 gam; M2 = 0,1566gam, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng M1 và M2 là 0,2912 gam. Mẫu vật hoàn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì thư bên ngoài ghi vụ số 951/MT-PC09.

Ngoài ra, khi bị bắt quả tang, H và L còn khai nhận đang mua ma túy để về phòng trọ của Nguyễn Văn T1 sử dụng nên lực lượng công an tiến hành kiểm tra phòng trọ của Nguyễn Văn T1 tại cơ sở trọ địa chỉ: 5/5C7, phường Bình Hòa, thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương. Tại đây, đang có Nguyễn Văn T1 và Lê Văn Th1, trong phòng trọ có bộ dụng cụ sử dụng ma túy nên lực lượng công an tiến hành lập biên bản khám xét và đưa T1, Th1 đến trụ sở công an làm việc.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T1 khai nhận: T1 có mối quan hệ bạn bè với H và L. Ngày 27/12/2019, H và L có đến nhà trọ của T1 chơi và có sử dụng ma túy chung. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi T1 đang chơi điện tử thì H và L đi ra ngoài sau đó cùng công an quay lại nhà trọ của T1. Lực lượng công an có kiểm tra phòng trọ của T1 nhưng không thu giữ gì, T1 không biết việc H và L đi mua ma túy và cất dấu trong người. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của T1 đã bị lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính ngày 28/12/2019.

Lê Văn Th1 khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 27/12/2019, H có gọi điện thoại cho Th1 hỏi mượn 400.000 đồng, do là chổ bạn bè quen biết nên Th1 có đưa đến cho H mượn tại nhà trọ của T1. Th1 không biết việc H mượn tiền để sử dụng ma túy. Quá trình điều tra, Th1 khai nhận bản thân có sử dụng ma túy đồng thời qua kiểm tra xác định Lê Văn Th1 có nghiện ma túy nên ngày 28/12/2019 đã bị lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại Bản cáo trạng số 122/CT-VKS-TA ngày 20 tháng 4 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn H và Hứa Văn L1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù; xử phạt bị cáo Hứa Văn L1 từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thuận An, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo c ng như những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Văn H, Hứa Văn L1 đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố. Lời khai của các bị cáo thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Nguyễn Văn H và Hứa Văn L1 là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 23 giờ ngày 27/12/2019, tại khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương, bị cáo H và L đã có hành vi tàng trữ 0,2912 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt giữ người cùng tang vật. Như vậy, hành vi trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, bản Cáo trạng số 122/CT-VKS-TA ngày 20 tháng 4 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn là nguyên nhân dẫn đến phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo là người nghiện ma túy nên nhận thức được tác hại của ma túy và biết hành vi tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện bản chất xem thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm để răn đe, giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Xét tính chất đồng phạm, đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn. Trong đó bị cáo H là người đưa tiền để mua ma túy; Bị cáo L không có tiền nhưng là người trực tiếp gặp người bán ma túy để mua ma túy nên xem xét vai trò đồng phạm ngang nhau. Tuy nhiên, đối với bị cáo H, bản thân đã từng bị Tòa án xét xử nhưng không lấy đó làm bài học và rèn luyện bản thân thành người công dân tốt mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên đối với bị cáo H phải xem xét hình phạt nghiêm hơn Bị cáo L để răn đe bị cáo.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định về hình phạt cần xem xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau:

Các bị cáo Nguyễn Văn H và Hứa Văn L1 quá trình điều tra và tại phiên tòa luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị mức hình phạt từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù đối với bị cáo H và từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đối với Bị cáo L là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định có tổng khối lượng 0,141gam ma túy loại Methamphetamine là vật chứng trong vụ án, xét không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đối với xe mô tô biển số 17B3 – 405.44. Quá trình điều tra xác định xe thuộc sở hữu của ông Bùi Huy Th và bà Vi Thị S, cơ quan điều tra Công an thành phố Thuận An trả lại xe cho ông Thêm và bà S; ông Thêm, bà S không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét.

[6] Đối với ông Nguyễn Văn T1 và Lê Văn Th1 quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo H và Bị cáo L; hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của ông T1 và ông Th1 đã bị xử phạt vi phạm hành chính ngày 28/12/2019 nên không xem xét về mặt trách nhiệm hình sự đối với ông T1 và ông Th1.

[7] Đối với người đàn ông tên Hoàng bán ma túy cho các bị cáo, Cơ quan điều tra Công an thành phố Thuận An đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không đủ thông tin về lai lịch địa chỉ nên không có cơ sở để xử lý và sẽ tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

[8] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo H, L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm c, Khoản 1, Điều 249; Điều 17; Khoản 1, Điều 47; Điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 106, 136, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H, Hứa Văn L1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 05 (năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 12 năm 2019.

Xử phạt bị cáo Hứa Văn L1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 12 năm 2019. 2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong ký hiệu 951/MT-PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20 tháng 04 năm 2020 giữa Công an thành phố Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H, Hứa Văn L1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về