Bản án 104/2018/HSST ngày 06/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUỐC – TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 104/2018/HSST NGÀY 06/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 88/2018/HSST ngày 22 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1995; Nơi thường trú: ấp Ph L, xã Ph Th B, huyện T N, tỉnh Đ Th; Nơi cư trú: khu phố E, thị trấn D Đ, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang. Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn giáo: Cao Đài; Nghề nghiệp: Môi giới bất động sản; Trình độ văn hoá: 9/12; Con ông: Nguyễn Văn B và bà Phan Thị Thu Th; Em ruột có 04 người lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền sự, tiền án: không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 28/6/2018 bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trang số: 92/KSĐT ngày 20 tháng 8 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện P Q, tỉnh Kiên Giang thì bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị truy tố theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với các tình tiết như nội dung bản cáo trạng đã nêu, cụ thể là: Từ tháng 3/2018, Nguyễn Văn T bắt đầu sử dụng ma túy. Vào khoảng 17 giờ ngày 23 tháng 6 năm 2018, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Văn T điện thoại cho một thanh niên tên S (chưa xác định nhân thân và địa chỉ) để hỏi mua 500.000 đồng ma túy về sử dụng. S đồng ý và hẹn địa điểm mua bán ma túy tại khu vực trước nhà nghỉ “ H S”, thuộc khu phố A, thị trấn D Đ, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang.

Khoảng 17 giờ cùng ngày, T đến địa điểm đã hẹn gặp S mua một bịch ma túy với giá 500.000đồng. Sau khi mua được ma túy xong, T mang về nhà Nghỉ “ H S” phòng số 14 mà T đã thuê, thuộc khu phố A, thị trấn D Đ, huyện P Q, lấy ra một ít để sử dụng, phần ma túy còn lại T cất giấu vào túi đựng đồ cá nhân để trong phòng nghỉ.

Khoảng 00 giờ, 10 phút, ngày 27 tháng 6 năm 2018, T đi đến quán cà Phê G, thuộc khu phố S, thị trấn D Đ, huyện P Q, thì gặp 03 người bạn tên là L, Ng và T (chưa xác định nhân thân và địa chỉ) rủ T cùng sử dụng ma túy, T đồng ý. Lúc này, Ng lấy trong người ra một bịch ma túy bốn người cùng nhau sử dụng, phần còn thừa lại Ng cho T mang về sử dụng. T mang về cất giấu chung với bịch ma túy đã mua trước đó.

Khoảng 16 giờ, ngày 28 tháng 6 năm 2018, Công an huyện P Q kiểm tra hành chính phòng nghỉ của Nguyễn Văn T phát hiện, bắt quả tang 02 bịch ma túy đang cất giấu trong túi đồ cá nhân của T và lập biên bản niêm phong một bịch ma túy có kích thước 02cm x 02cm và một bịch ma túy còn lại có kích thước 03cm x 04cm. Ngày 04 tháng 7 năm 2018, Nguyễn Văn T bị Cơ quan Công an Cảnh sát điều tra – Công an huyện P Q khởi tố vụ án và bắt tạm giam cho đến nay.

Tang vật vụ án thu giữ gồm:

Một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 02cm x 02cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, đã được niêm phong.

Một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 03cm x 04cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, đã được niêm phong.

Một điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 5S, màu bạc, Imei: 352083072572084, bị bễ màn hình, đã qua sử dụng.

Tại kết luận giám định số: 558/KL-KTHS, ngày 04/7/2018 của Phòng kỷ thuật hình sự, Công an tỉnh Kiên Giang kết luật như sau:

Các hạt tinh thể rắn, màu trắng không đồng nhất chứa trong một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 02cm x 02cm được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0.4059 gam. Là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT3237 của Nghị định 73/NĐ-CP, ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính Phủ.

Các hạt tinh thể rắn, màu trắng không đồng nhất chứa trong một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 03cm x 04cm được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0.3159 gam. Là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 35+ của Nghị định 73/NĐ-CP, ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính Phủ.

Mẫu vật còn lại sau giám định gồm:

Một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 02cm x 02cm có khối lương 0,3906 gam và Một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 03cm x 04cm có khối lương 0,2972 gam.

Phần tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị, Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự để xử lý vật chứng nêu trên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tại phiên bị cáo xin giảm mức hình phạt với mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, Căn cứ vào các tài liệu, trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P Q tỉnh Kiên Giang, Điều tra viên, Kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo cũng thừa nhận đã có hành vi cất giấu ma túy vào túi đựng đồ cá nhân của bị cáo để trong phòng nghỉ. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, các biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản niêm phong tang vật, phù hợp với bản kết luận giám định số: 558/KL-KTHS, ngày 04/7/2018 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Kiên Giang và phù hợp với các biên bản, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được.

Từ những căn cứ nêu trên đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tôi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, bản cáo trạng số: 92/KSĐT ngày 20 tháng 8 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện P Q, tỉnh Kiên Giang, truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội. Bởi chất ma túy đá là loại chất nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, nhưng bị cáo lén lúc mua về tàng trử để sử dụng. Hành vi của bị cáo tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo cũng đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với hành vi mua bán chất ma túy của tên S và những người sử dụng ma túy cùng bị cáo là L, Ng và T. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện P Q tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[4] Vật chứng của vụ án hiện Cơ quan Thi hành án dân sự huyện P Q đang quản lý theo biên bản bàn giao, nhận vật chứng ngày 22 tháng 8 năm 2018: Một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 02cm x 02cm có khối lương 0,3906 gam; một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 03cm x 04cm có khối lương 0,2972 gam. Đây là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tiêu hủy theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố Tụng hình sự và tịch thu sung vào ngân sách nhà nước một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S, màu bạc, Imei: 352083072572084, bị bễ màn hình, đã qua sử dụng theo Điều 47 Bộ luật hình sự 2015.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và giải thích quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 01 năm (Một năm) tù, thời điểm chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày 28/6/2018.

Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ lật hình sự.

Tịch thu tiêu hủy gồm: Một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 02cm x 02cm có khối lương 0,3906 gam; một bịch nylon màu trắng trong suốt có kích thước 03cm x 04cm có khối lương 0,2972 gam.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S, màu bạc, Imei: 352083072572084, bị bễ màn hình, đã qua sử dụng.

(Toàn bộ vật chứng nêu trên, Cơ quan Thi hành án dân sự huyện P Q đang quản lý theo biên bản bàn giao, nhận vật chứng ngày 22 tháng 8 năm 2018).

Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2018/HSST ngày 06/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về