TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 103/2021/HS-PT NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Vào ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 17/TLPT-HS ngày 05 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo: Trần Văn C về tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2020/HS-ST ngày 13/08/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
Bị cáo kháng cáo:
Trần Văn C, sinh ngày 04/02/1992 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú:
tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Làm ruộng, lái xe. Trình độ học vấn: lớp 12/12; cha: Trần Văn D (sinh năm 1966); mẹ: Hồ Thị C (sinh năm 1970); vợ: Phạm Thị Xuân L (sinh năm 1992); con: Có 02 con (sinh năm 2016 và 2018); tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 02 giờ 00 phút ngày 05/02/2020, sau khi đi giao gà cho khách tại cầu C, Trần Văn C điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 75C-036.90 chạy về nhà, khi đi ngang qua quán cà phê X (của ông Tôn Thất P) thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, C nhìn thấy trước quán có nhiều cây cảnh nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. C lén lút vào nhổ 06 cây Mộc hương đang trồng trong chậu đưa lên ô tô rồi chở về trồng sau vườn nhà của mình.
Sau khi phát hiện mất cây, ông Tôn Thất P đã làm đơn trình báo Công an.
Qua truy xét, đến 20 giờ cùng ngày, Công an đã bắt giữ được Trần Văn C cùng tang vật.
Quá trình điều tra tại Công an huyện P, Trần Văn C đã tự khai nhận có thêm 02 lần trộm cây Mộc hương trên địa bàn thành phố Huế, cụ thể:
- Lần thứ nhất: Khoảng 01 giờ 10 phút ngày 30/01/2020, Trần Văn C lén lút vào hiên nhà của ông Nguyễn Xuân D tại thành phố Huế trộm 02 cây Mộc hương đang trồng trong chậu để trước hiên nhà ông D rồi đưa lên xe ô tô biển kiểm soát 75C-036.90 chở về để sau vườn nhà.
- Lần thứ hai: Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 03/02/2020, Trần Văn C đến Công ty TNHH SX-DV K tại thành phố Huế lén lút trộm 02 cây Mộc hương của ông Nguyễn Đức T đang để trước cổng Công ty đưa lên xe ô tô biển kiểm soát 750036.90 chở về để trước sân nhà mình.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2020/HS-ST ngày 13/08/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Văn C 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra Bản án còn tuyên quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 18/08/2020, Bị cáo Trần Văn C làm đơn kháng cáo với nội dung:
xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay:
Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo.
Ý kiến của bị cáo Trần Văn C: Bị cáo lần đầu phạm tội, tài sản đã trả lại hết cho bị hại; đã ăn năn, hối cải; hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo là lao động chính, vợ thường xuyên ốm đau, có 02 con còn nhỏ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo đã rõ; Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 06 tháng tù là phù hợp, không nặng; bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Trần Văn C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ kết luận: Vào các ngày 03/02/2020 và ngày 05/02/2020, bị cáo Trần Văn C đã sử dụng xe ô tô biển kiểm soát 75C-036.90 của gia đình mình đi giao hàng trên địa bàn huyện P và thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; sau khi giao hàng xong đã dùng xe ô tô nói trên để trộm cắp tài sản, cụ thể: Bị cáo đã lén lút trộm cắp 02 cây hoa Mộc (Mộc hương) cao 2,0m của ông Nguyễn Đức T có giá trị qua định giá là 3.000.000 đồng; lén lút chiếm đoạt của ông Tôn Thất P 06 cây hoa Mộc (Mộc hương) có giá trị qua định giá là 6.350.000.000 đồng. Tổng số tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 9.350.000 đồng (Chín triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng). Hành vi của bị cáo như đã nêu trên đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[2] Xét tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Trần Văn C là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc lén lút trộm cắp tài sản của người khác là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm, và trừng trị nghiêm khắc. Tuy nhiên, do xuất phát từ lòng tham nên bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại, đã nhiều lần cố ý thực hiện tội phạm. Xét thấy, hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương, do đó cần phải xử phạt nghiêm mới đảm báo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn C xin giảm nhẹ hình phạt, và xin được hưởng án treo, Hội đồng xét xử xét thấy: Toà án cấp sơ thẩm khi quyết định hình phạt đã xem xét về nhân thân và vận dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, như: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; đã thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự thú khai báo hành vi phạm tội trước đó; thiệt hại do bị cáo gây ra không lớn; bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Tuy hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo có tính chất giản đơn, giá trị tài sản chiếm đoạt không lớn nhưng bị cáo đã nhiều lần phạm tội (phạm tội từ 02 lần trở lên) được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, phạm tội ở nhiều địa bàn khác nhau; trong đó ngày 30/01/2020, bị cáo còn có hành vi trộm cắp của ông Nguyễn Xuân D 02 cây Mộc hương có giá trị 1.000.000 đồng do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, cơ quan điều tra Công an thành phố Huế đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, có căn cứ.
[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới ở cấp phúc thẩm; đồng thời, do bị cáo phạm tội 02 lần nên không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về cho hưởng án treo. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo; ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp, bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2020/HS-ST ngày 13/08/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Văn C 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Việc thi hành án được thực hiện theo Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2020/HS-ST ngày 13/08/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 103/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 103/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về