Bản án 103/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 103/2019/HS-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Quang C (Tên gọi khác: E); Sinh ngày 27/9/1992 tại Quảng Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Quý L (Sn: 1955) và bà Phạm Thị Kim A (Sn: 1958); Có vợ là Lê Thị N (Sn: 1997) và 01 con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 30/12/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xử phạt 6 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách 1 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/5/2019, có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Y; Sinh ngày 09/6/1997 tại Quảng Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở:

xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần H (Sn: 1963) và bà Nguyễn Thị T (Sn: 1972); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/5/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến: Bà Đinh Thị Diệu N, sinh năm 1970; Trú tại: Tổ 11, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ 30 phút, ngày 10/5/2019, tại trước nhà số 143 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, tổ Tuần tra Công an phường Nam Dương phát hiện Trần Quang C, Trần Y và Phan Minh V (sinh năm: 1992; trú: xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam) có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra. Lúc này V liền bỏ chạy, còn C và Y bị lực lượng Công an khống chế giữ lại. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước, bên trái của Trần Quang C đang mặc có 01 gói thuốc lá hiệu Prince, bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng, chứa chất bột rắn màu trắng. C khai nhận đây là ma túy loại Heroin mà C chung tiền cùng với Y và V mua về để sử dụng.

Vật chứng thu giữ của Trần Quang C:

- 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột rắn màu trắng thu giữ trong gói thuốc lá có dòng chữ Prince trong túi quần phía trước, bên trái của Trần Quang C đang mặc, niêm phong ký hiệu A.

- 01 điện thoại di động màu đen có chữ Nokia, số seri: 356497065202846, lắp sim: 0384.955.066.

- 01 xe máy có dòng chữ Honda, BKS: 54Y4-2093, số khung: CHNMN6H- 000697, số máy: 152FMHV-110697.

Theo Kết luận giám định số: 139/GĐ-MT ngày 15/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận:

Chất bột màu trắng trong mẫu niêm phong ký hiệu A gửi giám định là ma túy, loại Heroin, khối lượng: 0,178 gam.

Quá trình điều tra, Trần Quang C và Trần Y khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 13 giờ 00 ngày 10/5/2019, C cùng với Y và Phan Minh V có nhu cầu sử dụng ma túy nên đã góp tiền để mua. C góp 300.000 đồng, Y góp 200.000 đồng, V góp 200.000 đồng, tổng cộng được 700.000 đồng. C dùng số điện thoại của mình là 0384.955.066 gọi đến số điện thoại 0905.876.287 của một người phụ nữ tên Tr (không rõ nhân thân lai lịch) để hỏi mua ma túy. Tr đồng ý và hẹn C đến kiệt 79 đường Nguyễn Hoàng, thành phố Đà Nẵng để giao ma túy. Trần Y điều khiển xe máy hiệu Honda BKS: 54Y4-2093 chở C và V đến điểm hẹn. Y và V đứng ngoài kiệt đợi. C vào trong kiệt gặp Tr, mua 01 gói ma túy giá 700.000 đồng. C cất gói ma túy vào gói thuốc lá hiệu Prince, rồi bỏ vào túi quần trước, bên trái đang mặc. Khi đi đến trước nhà 143 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, Đà Nẵng thì cả nhóm dừng lại và lấy 01 ít ma túy ra sử dụng, số ma túy còn lại thì C cất lại vào túi quần phía trước, bên trái đang mặc. Lúc này các bị cáo bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ số ma túy như nêu trên.

Quá trình điều tra, Trần Quang C và Trần Y đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của C và Y phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Xử lý vật chứng:

Chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu chờ xử lý:

- 0,078 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định.

- 01 điện thoại di động màu đen có chữ Nokia, số seri: 356497065202846, lắp sim: 0384.955.066.

- Đối với xe môtô BKS: 54Y4-2093, số khung: CHNMN6H-000697, số máy: 152FMHV-110697 qua tra cứu thì do Lê Trương Th (sinh năm: 1972; HKTT: Xã L, huyện I, TP. Hồ Chí Minh) làm chủ sỡ hữu nhưng hiện nay Th không có mặt tại địa phương. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 26/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Trần Quang C, Trần Y về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Trần Quang C từ 15 đến 18 tháng tù, xử phạt bị cáo Trần Y từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên tịch thu, tiêu hủy đối với 0,078 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định, tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động màu đen có chữ Nokia, số seri: 356497065202846, lắp sim: 0384.955.066.

Bị cáo Trần Quang C, Trần Y đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, và xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ lời khai của các bị cáo xác định khoảng 14 giờ 30 phút ngày 10/5/2019, tại trước nhà số 143 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, các bị cáo Trần Quang C và Trần Y bị tổ Tuần tra Công an phường Nam Dương bắt quả tang đang tàng trữ 0,178 gam ma túy, loại Heroin để sử dụng. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên biết rất rõ tác hại của ma túy. Ma túy làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thần kinh, tạo ra ảo giác, là tác nhân gây ra các tệ nạn xã hội, được nhà nước quản lý nghiêm nhưng các bị cáo vẫn bất chấp lao vào con đường phạm tội. Đối với loại tội phạm này cần phải được nghiêm trị nên cần cách ly các bị cáo một thời gian để giáo dục răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Trong vụ án này, bị cáo Trần Quang C là người trực tiếp mua ma túy về để sử dụng chung và trực tiếp cất giữ ma túy trong túi quần, do đó có vai trò lớn hơn so với bị cáo Trần Y, HĐXX thấy cần xem xét một mức hình phạt nặng hơn so với bị cáo Y mới tương xứng.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì thấy: Các bị cáo không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ thuộc điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, …tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe môtô BKS: 54Y4-2093, số khung: CHNMN6H-000697, số máy: 152FMHV-110697 qua tra cứu thì do ông Lê Trương Th (sinh năm: 1972; HKTT: xã L, huyện I, thành phố Hồ Chí Minh) làm chủ sỡ hữu nhưng hiện nay ông Th không có mặt tại địa phương. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

- Đối với 0,078 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định, là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động màu đen có chữ Nokia, số seri: 356497065202846, lắp sim: 0384.955.066, là vật thuộc sở hữu của bị cáo, sử dụng để liên lạc mua ma túy, xét thấy có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Từ những nhận định trên, xét thấy lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu về tội danh và áp dụng các điều luật cũng như đề nghị mức hình phạt là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Đối với Phan Minh V, hiện nay V không có mặt tại địa phương, Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu đã thông báo truy tìm đối tượng, nhưng đến nay chưa có kết quả; đối với người tên Tr bán ma túy cho C hiện nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Trần Quang C, Trần Y phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Quang C 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/5/2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Y 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/5/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng như sau:

- Tịch thu, tiêu hủy đối với 0,078 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu đen có chữ Nokia, số seri: 356497065202846, lắp sim: 0384.955.066.

(Các vật chứng nêu trên hiện nay Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 9 năm 2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Hải Châu và Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Trần Quang C, Trần Y mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về