TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 102/2019/HSST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 102/2019/HSST, ngày 14-8-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2019/QĐXXST-HS ngày 16-8-2019 đối với bị cáo:
Lường Văn D; tên gọi khác: Lường Văn R; sinh năm: 1969; tại xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản C, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lường Văn T ( Đã chết) và bà Lường Thị T, sinh năm: 1940; bị cáo có vợ: Quàng Thị S, sinh năm: 1970 và 03 con, lớn nhất 25 tuổi, nhỏ nhất 20 tuổi; tiền sự: Ngày 14-6-2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 ( mười hai) tháng; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 15-5-2019, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người phiên dịch cho bị cáo: Ông Lò Văn I;
Địa chỉ: Bản N, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. ( có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 20 phút, ngày 15-5-2019, Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản N, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Lường Văn D, trú tại: Bản C, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm: 01 (một) gói nilon màu xanh, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng nghi là Heroine (D khai là Heroine), có khối lượng 0,54 gam ký hiệu D1 và 04 viên nén hình trụ tròn màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (D khai là ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,40 gam ký hiệu D2. Rút toàn bộ 0,54 gam chất cục bột màu trắng ký hiệu D1 và 04 viên nén hình trụ tròn 0,40 gam ký hiệu D2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.
Tại bản Kết luận giám định số: 909/KLMT, ngày 18-5-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 là chất ma túy, loại chất Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,54 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu D2 là chất ma túy, loại chất Methamphetamin, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,40 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là: 0,54 gam loại Heroine và 0,40 gam loại Methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).
Tại cơ quan điều tra bị cáo Lường Văn Diêng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:
Khoảng 17 giờ 15 phút, ngày 15-5-2019, Lường Văn D lên bản P, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La chơi thì gặp một gười đàn ông dân tộc Thái ( D không biết tên và địa chỉ cư trú) rủ D đi làm thuê và đi mua ma túy cùng sử dụng, D đồng ý. Sau đó, D ngồi sau xe máy của người đàn ông đó điều khiển chở D đi tìm mua ma túy. Khi cả hai đi được khoảng 100 mét thì người đàn ông đi cùng D hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Thái (D không biết tên và địa chỉ cư trú) 01 gói Heroine và 10 viên hồng phiến gói bằng nilon màu xanh với số tiền 2.000.000đ. Sau khi mua được ma túy cả hai cùng nhau đi vào bụi cây ven đường gần đó san một ít Heroine và 02 viên hồng phiến ra sử dụng. Sử dụng ma túy xong, người đàn ông dân tộc Thái đó chia số Heroine và hồng phiến còn lại thành 02 gói , được gói bằng nilon màu xanh, bên trong mỗi gói đều chứa một ít Heroine và 04 viên hồng phiến và đưa 01 gói cho D nhờ cất hộ. D cầm gói ma túy cất vào túi quần đằng trái D đang mặc, rồi cùng người đàn ông dân tộc Thái đó tiếp tục đi xe máy vào huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La để làm thuê. Khi cả hai đi ra đến khu vực đường QL6A thuộc địa phận bản N, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì người đàn ông dân tộc Thái bảo D xuống xe đợi ở ven đường để người đàn ông đó đi tìm mượn mũ bảo hiểm cho D. Khi D đang đứng đợi người đàn ông đó thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu kiểm tra ma túy, quá trình kiểm tra tổ công tác phát hiện và bắt quả tang Lường Văn D về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số: 102/CT-VKS, ngày 13-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Lường Văn D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lường Văn D về điều, khoản và tội danh trên.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Lường Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Lường Văn D mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15-5-2019.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lường Văn D.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) mảnh nilon màu xanh + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.
Bị cáo Lường Văn D phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.
Ý kiến của bị cáo Lường Văn D: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về nhà với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Ngày 15-5-2019, Lường Văn D; trú tại: Bản C, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,54 gam Heroine và 0,40 gam Methamphetamine. Tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 0,94 gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.
Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo Lường Văn D tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Lường Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định :
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)……………………….
c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...............................
i) Có 2 chất ma túy chở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ b đến h khoản này.”
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lường Văn D, tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Lường Văn D.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Lường Văn D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.
Song nhân thân đã có một tiền sự chưa hết thời hiệu và một tiền án đã được đương nhiên xóa án tích nhưng vẫn bị coi là nhân thân xấu. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.
Bị cáo Lường Văn D đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.
Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Lường Văn D còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về nguồn gốc số ma túy Lường Văn D khai là của một người đàn ông dân tộc Thái ( D không biết họ tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) rủ D cùng đi mua của một người phụ nữ dân tộc Thái (Lường Văn D không biết họ tên và địa chỉ cụ thể của người phụ nữ ở đâu) tại bản P, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 15-5-2019 với giá 2.000.000đ. Do chỉ có lời khai duy nhất của Lường Văn D, ngoài ra không có chứng cứ nào khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý đối với người đàn ông rủ D đi mua ma túy và đối với người bán ma túy cho D.
[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.
[3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 01 ( một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ. Xét không cón giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Vận dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[4]. Về án phí: Bị cáo Lường Văn D phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm. Vận dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lường Văn D (tên gọi khác: Lường Văn R) phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
2. Về hình phạt: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Lường Văn D 36 ( ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15-5-2019 (là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).
3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiêu hủy Một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lường Văn D. Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 15-5-2019, một mảnh nilon màu xanh + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.
4. Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lường Văn D phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Lường Văn D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 102/2019/HSST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 102/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về