Bản án 10/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH TÂN, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2020/TLST- HS ngày 20 tháng 3 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

L, sinh năm 1996; tại huyện V, tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: ấp P, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông H và bà E; vợ và con: không; tiền án: không; tiền sự: 01 lần (Ngày 19/4/2019 Công an xã Tân An Thạnh xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với số tiền là 750.000 đồng). Bị cáo bị tạm giữ và tạm giam từ ngày 25/12/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ni có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Anh H, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Long

2/ Anh P, sinh năm 1993 (Vắng mặt) Nơi cư trú: ấp P, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ 40 phút ngày 24/12/2019 Công an huyện Bình Tân kết hợp Công an xã Tân An Thạnh tuần tra tuyến đường xã Tân An Thạnh. Khi đến đoạn đường thuộc tổ 4, ấp An Thạnh, xã Tân An Thạnh, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long thì phát hiện L điều khiển xe mô tô biển số 64F9-9102 chở B ngồi phía sau có biểu hiện nghi vấn nên lực lượng yêu cầu dừng xe kiểm tra. B xuống xe chạy trốn chỉ còn lại L. Lực lượng kiểm tra L thì phát hiện trong túi quần bên phải của L có chứa một bịt ni lon màu trắng bên trong có chứa nhiều hạt tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy. Lực lượng tuần tra tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tiến hành thử test nhanh L thì L dương tính với ma túy đá (chất Methamphetamine).

Tang vật thu giữ gồm:

- 01 bịt ni lon trắng, bên trong chứa nhiều hạt tinh thể rắn màu trắng (nghi là ma túy đá) được niêm phong lại.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 108 màu đen.

- 01 xe mô tô hiệu Wave biển số 64F9-9102, 01 giấy đăng ký xe tên D, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe tên N.

Căn cứ Kết luận giám định số 690/KLGĐ-PC09 ngày 26/12/2019 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: “Một bịt ni lon có chứa nhiều viên tinh thể rắn được niêm phong trong bì thư gửi đi giám định có chữ ký của L là ma túy, có khối lượng 0,1519gam, loại Methamphetamine”. (BL 19-26) Xét thấy đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên vào ngày 27/12/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Tân ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với L về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và ra lệnh bắt tạm giam bị can để điều tra cho đến nay.

Tại Cáo trạng số 15/CT-VKSBT ngày 19/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long đã truy tố bị can L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, sau khi phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân của bị cáo, năng lực trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Tân vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo L và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bịt ni lon nhỏ chứa 0,1016 gam ma túy.

Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại hiệu Nokia 108 màu đen dùng để liên hệ mua ma túy.

Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH12 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án buộc bị cáo L nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Tân đã truy tố, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo L nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì đã ăn năn, hối cải và hứa sẽ cai nghiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Tân, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo và lời khai của người liên quan đến vụ án tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ được, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, đã đủ cơ sở kết luận do nghiện ma túy, nên L thường xuyên mua về sử dụng. Đến tối ngày 24/12/2019 L điện thoại cho B hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá thì B đồng ý. Bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 64F9-9102 đến khu vực cầu Mương Rã thuộc xã B gặp B để lấy ma túy như đã hẹn trước. Sau khi mua xong bị cáo chở B về nhà vì B xin quá giang. Trên đường về, khoảng 22 giờ 40 phút ngày 24/12/2019 bị cáo bị lực lượng công an yêu cầu dừng xe kiểm tra thì phát hiện trong túi quần bên phải của L có chứa một bịt ni lon màu trắng bên trong chứa ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1519 (không phẩy một nghìn năm trăm mười chín), mục đích tàng trữ là để sử dụng. Hành vi trên của bị cáo L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Tân đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật như trong Bản cáo trạng số 15/CT-VKSBT ngày 19/3/2020, cũng như lời luận tội của vị Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, bởi chất methamphetamine là một trong những chất ma túy được Nhà nước độc quyền quản lý, cấm tàng trữ và sử dụng, nếu ai vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Thế nhưng hiện nay tệ nạn này vẫn có chiều hướng gia tăng và ngày càng diễn biến phức tạp, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức được việc tàng trữ ma túy là tệ nạn xã hội bị nghiêm cấm cũng như những hệ lụy mà ma túy có thể đem lại nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút của bản thân, bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, sự lên án của xã hội mà bị cáo đã thực hiện. Xét nhân thân của bị cáo L có một tiền sự vào ngày 19/4/2019 bị Công an xã Tân An Thạnh xử phạt hành chính với số tiền 750.000 đồng nhưng đến nay lại tiếp tục phạm tội. Chính vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, bằng việc cách ly khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống và ngăn ngừa đối với loại tội phạm này.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Đối với B không thừa nhận bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Tân chưa chứng minh được B có bán cho bị cáo không nên tiếp tục xác minh và sẽ lý sau.

[5] Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy là để sử dụng, không vì mục đích mua bán nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 gói niêm phong số 690/KLGĐ-PC09 ngày 26/12/2019 bên trong chứa ma túy (loại Methamphetamine) còn lại sau khi giám định có khối lượng là 0,1016 gam cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại hiệu Nokia 108 màu đen của H cho bị cáo mượn để sử dụng nhưng nay H không yêu cầu nhận lại điện thoại do đó cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Wave biển số 64F9-9102, 01 giấy đăng ký xe tên D, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe tên N thì Công an huyện Bình Tân đã trả lại cho anh N. Xe mô tô 64F9-9102 anh N mua của ông D nhưng chưa sang tên, Công huyện Bình Tân có tiến hành xác minh chính quyền địa phương thì ông D hiện nay ở đâu, làm gì không rõ. Do đó, Công an huyện Bình Tân đã trả lại các tài sản trên cho anh N. Sau khi nhận anh N không có ý kiến gì thêm.

[7] Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo L nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí án phí hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo L 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 25/12/2019.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 690/KLGĐ-PC09 ngày 26/12/2019 bên trong có chứa chất ma túy (loại Methamphetamine) còn lại sau khi giám định có khối lượng là 0,1016 gam.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 108 màu đen.

(Các vật chứng nêu trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long đang tạm giữ theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/3/2020)

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo L nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

348
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Tân - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về