Bản án 10/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ U, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố U tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 138/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lê Văn Ph; sinh ngày 17-03-1993 tại huyện T, thành phố H; nơi cư trú: thôn 8, xã L, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn V (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; vợ: Lê Thị Kim O; con: 02 con lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; bị bắt ngày 03-10- 2019; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

2. Nguyễn Huy H; sinh ngày 19-9-1990, tại huyện T, thành phố H; Nơi ĐKNKTT: thôn 5, xã L, huyện T, thành phố H; Chỗ ở hiện nay: thôn 2, xã L, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Huy H (đã chết) và bà Đỗ Thị B; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt ngày 03-10-2019; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

Những người làm chứng:

1) Anh Lê Văn T; sinh năm: 1988; địa chỉ: thôn 8, xã L, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

2) Anh Phạm Văn T; sinh năm: 1970; địa chỉ: xóm chợ T, xã L, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

3) Anh Đỗ Khắc H; sinh năm: 1983; địa chỉ: thôn 3, xã K, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

4) Ông Nguyễn Đình D, sinh năm: 1963; địa chỉ: thôn N, xã L, huyện T thành phố H; vắng mặt.

Những người chứng kiến:

1) Ông Bùi Văn P, sinh năm: 1966; địa chỉ: tổ 3, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

2) Ông Đỗ Văn Th, sinh năm: 1965; địa chỉ: tổ 1, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 10 giờ 30 phút ngày 03-10-2019, tại Tổ 1, khu B, phường P, thành phố U; tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố U trong khi làm nhiệm vụ đã phát hiện Lê Văn Ph và Nguyễn Huy H cùng trú tại huyện T, thành phố H có biểu hiện nghi cất giữ trái phép chất ma túy. Khi kiểm tra Ph đã thả xuống đất, cách nơi đang đứng khoảng 20 cm, 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nhưng bị phát hiện thu giữ.

Ngoài ra còn thu giữ của Lê Văn Ph: 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu trắng-xanh biển kiểm soát 16P1-3599; một căn cước công dân mang tên và ảnh Lê Văn Ph; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen cùng sim số 0947.246.355; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen cùng sim số 0904.349.717 và số 0372.657.664; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh cùng sim số 0568.001.947 và 500.000 VNĐ. Thu của Nguyễn Huy H: 90.000 VNĐ; 01 túi giả da (dạng túi đựng kính) màu nâu, kích thước khoảng (07x15)cm;

bên trong có 01 ống thủy tinh màu trắng, dài khoảng 20cm, một đầu uốn thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn, bên trong bầu tròn dính chất dạng vết màu đen; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 ống kim loại dài khoảng 10cm; 04 ống hút bằng nhựa màu trắng, dài khoảng 15cm; 01 nắp chai bằng nhựa màu xanh đục 02 lỗ nhỏ.

Kết luận giám định số: 773/GĐMT ngày 05-10-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận đối với mẫu vật ghi thu của Lê Văn Ph và Nguyễn Huy H ngày 03-10-2019 ký hiệu M1 (chất tinh thể màu trắng) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0, 239 gr (không phẩy hai ba chín gam) ký hiệu M2 (dạng vết màu đen) không xác định được khối lượng.

Quá trình điều tra, làm rõ: Do có nhu cầu mua ma tuý để sử dụng nên khoảng 09 giờ ngày 03/10/2019, Ph rủ H sang thành phố U mua ma túy loại đá để sử dụng. Ph và H thống nhất mỗi người góp 150.000 đồng, Ph ứng tiền ra mua ma tuý. Khi H đồng ý thì Ph lấy túi đựng đồ dùng để sử dụng ma tuý cho H cầm. Sau đó, Ph lấy điện thoại Itel bên trong có số 0904.349.717 gọi cho một người nam giới có tên trong danh bạ là "C.gia" là người đã từng bán ma tuý cho Ph hỏi mua và được người này hẹn đến khu chợ P, thành phố U để nhận ma túy. Sau đó Ph điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 16P1-3599 chở H sang thành phố U, khi đi vào phía sau chợ P. Ph một mình đi bộ đến gặp người đàn ông bán ma tuý và đưa cho người này 300.000 đồng, người này đưa cho Ph gói nilon màu trắng, Ph cầm số ma tuý vừa mua quay lại chỗ H, Ph điều khiển chở H đi được 250m thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang thu giữ số vật chứng nêu trên.

Nhng người chứng kiến, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa xong lời khai trong quá trình điều tra được chứng kiến cơ quan công an bắt giữ các bị cáo, thu giữ vật chứng như đã nêu trên phù hợp với lời khai của các bị cáo .

Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKSUB ngày 12 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố U, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị can Lê Văn Ph và Nguyễn Huy H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 17, Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo: Lê Văn Ph từ 12 (Mười hai) tháng tù đến 15 (Mười lăm) tháng tù. Bị cáo Nguyễn Huy H từ 12 (Mười hai) tháng tù đến 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thời hạn tù tính từ ngày bắt 03-10-2019.

- Áp dụng: Điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1; điểm a,c khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 773 /GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 túi giả da (dạng túi đựng kính) màu nâu, kích thước khoảng (07x15)cm; bên trong có 01 ống thủy tinh màu trắng, dài khoảng 20cm, một đầu uốn thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn, bên trong bầu tròn dính chất dạng vết màu đen; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 ống kim loại dài khoảng 10cm; 04 ống hút bằng nhựa màu trắng, dài khoảng 15cm; 01 nắp chai bằng nhựa màu xanh đục 02 lỗ nhỏ, sim số: 0904349717 và 0372657664 - Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ màu đen.

+ Trả lại bị cáo Lê Văn Ph 500.000đ ( Năm trăm ngàn đồng).

+ Trả lại bị cáo Nguyễn Huy H 90.000đ (chín mươi ngàn đồng).

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo thừa nhận: Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là đúng người đúng tội, không oan tội, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố U, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố U, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với các bị cáo:

Lời khai của các bị cáo Lê Văn Ph và Nguyễn Huy H tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến,người làm chứng,vật chứng thu giữ của các bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận: Hồi 10 giờ 30 phút ngày 03-10-2019, tại tổ 1, khu B, phường P thành phố U, Quảng Ninh đã phát hiện và bắt quả tang Lê Văn Ph và Nguyễn Huy H có hành vi cố ý tàng trữ trái phép 0,239g ma tuý loại Methamphetamine mục đích để sử dụng.

Hành vi của của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố U truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt đối với các bị cáo:

[3.1] Hình phạt chính.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bị cáo do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[3.2] Về tính chất đồng phạm và vai trò của các bị cáo: Các bị cáo cùng nhau thực hiện một tội phạm nhưng không có sự bàn bạc cấu kết chặt chẽ với nhau từ trước nên đây là vụ án đồng phạm giản đơn.Trong đó bị cáo Ph là người khởi xướng, ứng tiền, chuẩn bị đồ dùng sử dụng ma túy, trực tiếp gọi điện giao dịch mua ma túy và cầm ma túy nên giữ vai trò chính. Bị cáo H khi được bị cáo Ph khởi sướng việc góp tiền mua ma túy cùng sử dụng, bị cáo H không can ngăn mà tiếp nhận nhất trí cùng Ph thực hiện hành vi phạm tội nên có vai trò thấp hơn bị cáo Ph và chịu mức án thấp hơn bị cáo Ph.

Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân.

[3.3] Hình phạt Bổ sung.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, người phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo Lê Văn Ph và Nguyễn Huy H hiện nay không còn nghề nghiệp, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ màu đen là công cụ của các bị cáo dùng vào việc phạm tội vì vậy cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước .

+ 01 túi giả da (dạng túi đựng kính) màu nâu, kích thước khoảng (07x15)cm;

bên trong có 01 ống thủy tinh màu trắng, dài khoảng 20cm, một đầu uốn thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn, bên trong bầu tròn dính chất dạng vết màu đen; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 ống kim loại dài khoảng 10cm; 04 ống hút bằng nhựa màu trắng, dài khoảng 15cm; 01 nắp chai bằng nhựa màu xanh đục 02 lỗ nhỏ, 02 số điện thoại: 0904349717 và 0372657664, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với chiếc xe mô tô biển số: 16P1- 3599 không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho chủ sở hữu nên không đề cập xử lý.

+ Số tiền 590.000đ ( Năm trăm chín mươi ngàn đồng) thu giữ của các bị cáo Lê Văn Ph và Nguyễn Huy H không liên quan đến vụ án nên trả lại các bị cáo.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn Ph và Nguyễn Huy H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Ph 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 03-10-2019).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 03-10-2019).

Áp dụng: khoản 1, Điểm a,c khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 773 /GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh ; 01 túi giả da (dạng túi đựng kính) màu nâu, kích thước khoảng (07x15)cm; bên trong có 01 ống thủy tinh màu trắng, dài khoảng 20cm, một đầu uốn thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn, bên trong bầu tròn dính chất dạng vết màu đen; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 ống kim loại dài khoảng 10cm; 04 ống hút bằng nhựa màu trắng, dài khoảng 15cm; 01 nắp chai bằng nhựa màu xanh đục 02 lỗ nhỏ, sim số: 0904349717 và 0372657664.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ màu đen.

+ Trả lại bị cáo Lê Văn Ph số tiền 500.000đ ( Năm trăm ngàn đồng ), bị cáo Nguyễn Huy H 90.000đ ( chín mươi ngàn đồng ).

Tình trạng những vật chứng nêu trên theo Biên bản giao vật chứng ngày 23/12/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố U và Chi cục thi hành án dân sự thành phố U, tỉnh Quảng Ninh.

4. Căn cứ vào: khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Lê Văn Ph và Nguyễn Huy H mỗi bị cáo phải nộp vào ngân sách nhà nước 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về