Bản án 10/2020/HSST ngày 11/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 10/2020/HSST NGÀY 11/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2019/HSST ngày 15 tháng 01 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 01 năm 2020 đối với:

Bị cáo: Vũ Văn T; Sinh ngày 12/10/1990 tại Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn K, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Bình.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn T và bà Nguyễn Thị H.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Từ tháng 02/2009 đến tháng 7/2010 tham gia nghĩa vụ quân sự, đóng quân tại đơn vị E242 QK3 Quân khu 3.

Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 93 ngày 03/01/2012 của Công an huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, xử phạt Vũ Văn T 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc; nộp phạt xong ngày 04/01/2012.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/12/2019 đến ngày 15/12/2019 chuyển tạm giam có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/12/2019, bị cáo (Vũ Văn T) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SuZuKy-ViVa, màu xanh, biển số đăng ký 18S3-8029, đi đến khu vực Trường tiểu học phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình với mục đích mua ma túy đá về sử dụng cho bản thân. Tại đây bị cáo gặp một người nam giới khoảng 30 tuổi (không biết tên và địa chỉ cụ thể của người này), bị cáo hỏi người nam giới “anh có ma túy đá không bán cho em 500.000 đồng”, người nam giới trả lời “có, đưa tiền đây”, bị cáo đưa cho người nam giới 500.000 đồng, người nam giới nhận tiền và đưa lại cho bị cáo 01 túi ma túy, bị cáo nhận lấy túi ma túy bỏ vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi điều khiển xe máy đi về tìm chỗ để sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, khi bị cáo đi đến khu vực ngã ba chợ đầu mối, đường Long Hưng, tổ 37, phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình thì bị tổ công tác của Công an phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình yêu cầu dừng xe để kiểm tra vì nghi có liên quan đến ma túy. Trong quá trình kiểm tra có sự chứng kiến của anh Bùi Văn H, sinh năm 1970, trú tại tổ 24, phường H và anh Đào Văn H, sinh năm 1981, trú tại tổ 26, phường H, thành phố T, bị cáo đã tự giác lấy từ trong túi quần bên phải đang mặc 01 túi nilon trong suốt, bên trong chứa chất dạng tinh thể trong suốt bị cáo khai là ma túy đá, loại Methamphetamine. Sau đó tổ công tác đưa bị cáo và mời người chứng kiến cùng đưa xe máy của bị cáo về trụ sở Công an phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình để làm việc kiểm tra, quản lý tại túi quần bên phải bị cáo 01 điện thoại di động Samsung A10, màu đen. Tổ công tác Công an phường Hoàng Diệu đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và quản lý, niêm phong số vật chứng thu trên. Ngoài ra còn quản lý của bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu SuZuKy- ViVa, màu xanh, biển số đăng ký 18S3-8029.

Bản kết luận giám định số 449/KLGĐ-PC09 ngày 13/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất dạng tinh thể trong suốt trong phong bì niêm phong ghi: Vật chứng thu giữ của Vũ Văn T, sinh năm 1990, ĐKHKTT tại thôn K, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Bình, ngày 12/12/2019 là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4981 gam.

Tại cáo trạng số 13/CT-VKSTP ngày 14 tháng 01 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình quyết định truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Về hình phạt: Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Vũ Văn T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố, không trình bày lời bào chữa tranh luận gì, bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên, của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đúng quy định pháp luật, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vũ Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người chứng kiến anh Bùi Văn H và anh Đào Văn H, biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, sự việc và đồ vật. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định như sau: Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 12/12/2019, tại khu vực ngã ba chợ đầu mối, đường Long Hưng, tổ 37, phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, bị cáo Vũ Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4981 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang.

[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, tàng trữ chất ma túy không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, mục đích sử dụng cho bản thân, loại ma túy, khối lượng ma túy tương ứng với quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ...;

c) Hêrôin, ....có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;...”

[4] Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

[5] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tham gia quân đội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự xã hội, vi phạm pháp luật hình sự. Vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm đối với bị cáo là phạt tù có thời hạn buộc cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định mới đảm bảo hiệu quả của việc cải tạo, giáo dục cũng như phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên xét thấy bị cáo là đảng viên (sau khi phạm tội đã bị đình chỉ sinh hoạt) có thời gian tham gia quân đội nên xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân, hoàn cảnh điều kiện kinh tế của bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Bị cáo khai mua ma túy của một người nam giới không biết tên, tuổi địa chỉ. Vì vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý đối với người bán ma túy.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Chiếc điện thoại di động Samsung A10, màu đen của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu SuZuKy-ViVa, màu xanh, biển số đăng ký 18S3-8029 qua điều tra xác định là tài sản của ông Vũ Văn T, sinh năm 1966, trú thôn K, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Bình là bố đẻ của bị cáo. Ngày 12/12/2019, bị cáo mượn xe máy của ông T nói đi có việc, ông T không biết việc T mượn xe máy để đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã quyết định trả lại chiếc xe máy trên cho ông Vũ Văn T nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50; Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Vũ Văn T 01 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/12/2019. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo Vũ Văn T còn lại sau giám định.

Trả lại bị cáo Vũ Văn T 01 điện thoại di động Samsung A10, màu đen (Vật chứng có đặc điểm mô tả chi tiết trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an thành phố Thái Bình và cơ quan Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình.)

4. Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thòi han 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/02/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HSST ngày 11/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về