Bản án 10/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2019 tại Nhà Văn hóa thôn Khe Cạn, xã Đông An, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 06/2019/HSST ngày 29-01-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Cầm Thế H, sinh ngày 24-01-1993 tại V, Yên Bái. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Cầm Văn C, sinh năm 1967 và bà Đặng Thị H, sinh năm 1972. Vợ, con; Chưa. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 26-7-2013 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai ra Quyết định áp dụng cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18-9-2018. Hiện đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Yên Bái – Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Đặng Thị H, sinh năm 1972.

Trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

+ Anh Hoàng Văn B, sinh năm 1971.

Trú tại: Thôn G, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

+ Anh Trần Kim Q, sinh năm 1978.

Trú tại: Tổ 11, thị trấn C, huyện T, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Đào Văn N, sinh năm 1994.

Trú tại: Thôn D, xã Ng, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Xuân Th, sinh năm 1999.

Trú tại: Thôn T, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Hoàng Xuân Q, sinh năm 1993.

Trú tại: Tổ 6, khu phố 3, thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

- Người chứng kiến:

+ Ông Bùi Minh S, sinh năm 1962.

Trú tại: Thôn Tr, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do thấy bán ma túy thu lợi nhuận cao, ngày 13-8-2018 Cầm Thế H đã đi lên khu vực phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai để tìm mua ma túy. Tại đây H đã mua được của người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ được một gói ma túy dạng đá với giá 2.000.000đ. Sau khi mua được ma túy H mang về quán trà sữa Hai chị em ở thôn T, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái (là ngôi nhà H thuê của ông Hoàng Văn B để cùng Hà Thị Ng, sinh năm 1982, đăng ký thường trú tại xã Y, huyện G, thành phố Hà Nội- Người sống như vợ chồng với H thuê để ở và kinh doanh trà sữa). Tại đây H đã chia nhỏ số ma túy thành nhiều gói nhỏ cất giấu nhằm bán kiếm lời. Từ ngày 15-8-2018 đến ngày 17-9-2018, H đã nhiều lần thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy như sau:

Lần thứ nhất: Trưa ngày 15-8-2018, Hoàng Xuân Q gọi điện cho H hỏi mua ma túy, H đồng ý bán và bảo Q đến quán trà sữa của H. Một lúc sau Q đi xe máy đến, tại đây H đã bán cho Q 01 gói ma túy dạng đá với giá 300.000đồng. Sau khi nhận ma túy Q đem đi đâu và làm gì H không rõ.

Lần thứ hai: Khoảng 10h 30 ngày 16-8-2018, Nguyễn Trọng Đ, sinh năm 1990, trú tại: thôn Đ, thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái gọi điện thoại cho H để hỏi mua 500.000đ ma túy dạng đá và nói nhờ Hoàng Xuân Q lên lấy hộ, H đồng ý, khoảng 30 phút sau thì Q đi xe máy đến và đưa cho H 500.000đ, H cầm tiền và đưa gói ma túy đạng đá cho Q. Sau khi nhận ma túy Q đem đi đâu và làm gì H không rõ.

Lần thứ ba: Khoảng từ ngày 10 đến ngày 13 tháng 9 năm 2018 có Đào Văn N gọi điện thoại cho H hỏi mua ma túy, H đồng ý và hẹn gặp ở khu vực đường rẽ vào trường Trung học cơ sở xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái để giao dịch mua bán ma túy. Tại đây H gặp N và Trần Kim Q, H đã bán cho N và Q mỗi người một gói ma tuý dạng đá với giá 200.000đồng/gói. Sau khi nhận ma túy N, Q đem đi đâu và làm gì H không rõ.

Lần thứ tư: Khoảng 11h 30 ngày 15-9-2018, tại quán trà sữa của H, H đã bán cho Hoàng Xuân Q 01 gói ma túy dạng đá với giá 300.000đồng. Sau khi nhận ma túy Q đem đi đâu và làm gì H không rõ.

Lần thứ năm: Khoảng 21h ngày 16-9-2018, Đào Văn N gọi điện cho H hỏi mua 01 gói ma túy dạng đá, H đồng ý và hẹn gặp N tại đoạn đường qua cánh đồng gần Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái, tại đây H đã bán cho N 01 gói ma túy dạng đá với giá 200.000đồng. Sau khi nhận ma túy N đem đi đâu và làm gì không rõ.

Lần thứ sáu: Khoảng 16h ngày 17-9-2018, Đào Văn N và Trần Kim Q gọi điện thoại cho H hỏi mua ma túy, H đồng ý và hẹn gặp tại khu vực đỉnh dốc đường liên xã Đ – Q, cách gác chắn đường sắt khoảng 150m, sau đó H đi xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX màu đỏ BKS 21E1-283.03 đến chỗ hẹn, tại đây H đã bán cho N và Q mỗi người 01 gói ma túy dạng đá với giá 200.000đồng. Sau khi mua được ma túy Đào Văn N mang đi đâu H không biết còn Trần Kim Q mang số ma túy mua được cất giấu trong cốp xe của mình, ngày 18-9-2018 khi đi công việc tại thành phố Y, tỉnh Yên Bái đến khu vực tổ 44, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái, Q lấy số ma túy mua được của H ra sử dụng, khi vừa sử dụng xong thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra về ma túy công an tỉnh Yên Bái bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 vỏ chai nhựa; 01 ống hút nhựa; 01 vỏ giấy bạc và 01 vỏ túi nilon màu trắng nẹp kín một đầu.

Ngoài ra H còn khai nhận bị cáo có bán cho Nguyễn Xuân Th - Nguyễn Tư H 01 gói với giá 200.000đ nhưng bị cáo không nhớ rõ vào thời gian nào.

Căn cứ lời khai của Trần Kim Q, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp người, chỗ ở đối với Cầm Thế H, Cơ quan điều tra đã thu giữ vật chứng gồm:

+ 01 gói nilon màu trắng được nẹp kín, bên trong có chứa ma túy dạng đá tổng hợp.

+ 01 cân điện tử màu đen đã qua sử dụng.

+ 01 điện thọai di động nhãn hiệu NOKIA bàn phím nổi, màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, màn hình cảm ứng.

+ 01 gói nilon màu trắng được nẹp kín, bên trong có chứa 100 túi nilon màu trắng nẹp kín một đầu.

+ 01 Chứng minh nhân dân số: 0600958824 mang tên Cầm Thế H.

+ 01 giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 011965, mang tên Cầm Thế H.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX màu đỏ BKS 21E1-283.03.

Quá trình điều tra xác định 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, màn hình cảm ứng, 01 Chứng minh nhân dân số: 0600958824 mang tên Cầm Thế H xác định không liên quan đến tội phạm, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo thông qua người được ủy quyền là chị Đặng Thị H- mẹ bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về hành vi của bị cáo Cầm Thế H đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo đã cố tình mua ma túy về bán cho Trần Kim Q, Đào Văn N, Hoàng Xuân Q, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Th và tàng trữ 01 gói gói ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích bán để kiếm lời cho bản thân như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận Giám định số: 164/GĐMT ngày 25-9-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

- Chất tinh thể màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của Cầm Thế H có khối lượng là 0,17g. 0,04g trích ra từ 0,17g tinh thể màu trắng gửi đi giám định là ma túy; loại Methamphetamine.

Methamphetamine nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định: 73/2018/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Cầm Thế H đã thành khẩn khai nhận hành vi bán 09 gói ma túy cho Trần Kim Q, Đào Văn N, Hoàng Xuân Q, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Th và tàng trữ 0,17g ma túy; loại Methamphetamine nhằm mục đích bán để kiếm lời cho bản thân như đã nêu trên. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số: 12/CT-VKS-VY ngày 28-01-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã truy tố bị cáo: Cầm Thế H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b, c khoản 2 điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Cầm Thế H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm b, c khoản 2 điều 251, điểm r, s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên phạt bị cáo Cầm Thế H từ 10 năm đến 11 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Về hình phạt bố sung:

Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo từ 5.000.000đ đến 10.000.000đ sung công quỹ Nhà nước.

Truy thu của bị cáo số tiền 2.300.000đ là số tiền do phạm tội mà có.

Áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 0,13g ma túy, loại: Methamphetamine, 01 gói nilon màu trắng được nẹp kín, bên trong có chứa 100 túi nilon màu trắng nẹp kín một đầu thu giữ của bị cáo và 01 vỏ chai nhựa; 01 ống hút nhựa; 01 vỏ giấy bạc và 01 vỏ túi nilon màu trắng nẹp kín một đầu thu giữ khi bắt quả tang Trần Kim Q.

Tịch thu của bị cáo 01 xe môtô Biển kiểm soát 21E1-283.03 nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen bàn phím nổi, 01 cân điện tử sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Yên Bái, Công an huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh yên Bái, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2]. Về sự vắng mặt của người làm chứng, người chứng kiến Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của người làm chứng, người chứng kiến đã có đầy đủ trong hồ sơ vụ án nên viêc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Xem xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy phù hợp với: Biên bản vi phạm hành chính, biên bản khám xét, biên bản niêm phong vật chứng, vật chứng thu giữ; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng, người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hồi 17h ngày 18-9-2018 tại nơi ở của Cầm Thế H thuộc khu vực thôn T, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái, bị cáo Cầm Thế H đã có hành vi tàng trữ 0,17g ma túy, loại: Methamphetamine nhằm mục đích bán để kiếm lời. Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ ngày 13-8-2018 đến ngày 17-9-2018, Cầm Thế H còn có hành vi bán 05 gói ma túy mỗi lần 01 gói cho Hoàng Xuân Q, Nguyễn Trọng Đ, Đào Văn N, Nguyễn Xuân Th và 02 lần bán 04 gói ma túy cho Đào Văn N - Trần Kim Q, mỗi lần bán cho 02 người, mỗi người 01 gói với tổng số tiền 2.300.000đ.

Đã có đủ cơ sở kết luận: Các hành vi của Cầm Thế H đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, c khoản 2 điều 251 Bộ luật Hình sự.

[2.2]. Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Hành vi của bị cáo là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn khác trong xã hội đang bị toàn xã hội bài trừ. Do đó, cần có hình thức xử lý nghiêm minh để giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[2.3]. Xét nhân thân của bị cáo Cầm Thế H chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo là người có sức khỏe, có khả năng điều khiển mọi hành vi hoạt động của bản thân, bị cáo đã bị áp dụng đi cai nghiện bắt buộc vào năm 2013, bị cáo hiểu rõ tác hại của ma tuý đối với sức khỏe và đời sống của con người nhưng do lối sống đua đòi, buông thả không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, lười lao động, để có tiền phục vụ cho nhu cầu của bản thân, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

[2.4]. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tự thú về các hành vi phạm tội trước đó.

Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được Hội đồng xét xử xem xét đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy cần phải có mức hình phạt thỏa đáng tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[2.5]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bản thân bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[2.6]. Về nguồn gốc số ma túy mà bị cáo H có để tàng trữ và bán cho Hoàng Xuân Q, Nguyễn Trọng Đ, Đào Văn N, Nguyễn Xuân Th, Trần Kim Q. Bị cáo khai mua của người nam giới, bị cáo không biết tên, tuổi và địa chỉ tại khu vực thuộc địa phận phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Do đó, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xác minh, xử lý trong cùng vụ án.

[2.7]. Đối với Hoàng Xuân Q, Đào Văn N, Nguyễn Xuân Th, Trần Kim Q là những đối tượng nghiện chất ma túy đã mua ma túy của Hùng với mục đích để sử dụng, xét chưa đến mức xử lý hình sự nên Cơ quan điều tra Công an tỉnh Yên Bái, Công an huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Hoàng Xuân Q, Đào Văn N, Nguyễn Xuân Th, Trần Kim Q là phù hợp.

Đối với Vũ Trọng Đ và Nguyễn Tư H: Quá trình điều tra bị cáo khai nhận đã bán ma túy cho Đ và H, Cơ quan điều tra đã nhiều lần tiến hành triệu tập, xác minh nhưng Đ và H vắng mặt tại địa phương nên không có căn cứ làm rõ để xử lý cùng vụ án.

Đối với Hà Thị Ng: Quá trình điều tra, xác minh không có đủ cơ sở xác định Ng có liên quan đến việc mua bán ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với Ng là phù hợp.

Đối với Hoàng Văn B: Quá trình điều tra, xác minh xác định anh B là người cho H thuê nhà để ở và bán trà sữa, anh B không biết việc bị cáo sử dụng ngôi nhà là nơi thực hiện hành vi phạm tội nên cơ quan điều tra không đề cập sử lý đối với anh B là phù hợp.

[2.7]. Về vật chứng:

- Đối với 01 giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 011965, mang tên Cầm Thế H; 01 xe môtô Biển kiểm soát 21E1-283.03 nhãn hiệu HONDA WAVE RSX; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen bàn phím nổi, 01 cân điện tử màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Cầm Thế H. Quá trình điều tra xác định liên quan đến tội phạm cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 vỏ chai nhựa; 01 ống hút nhựa; 01 vỏ giấy bạc và 01 vỏ túi nilon màu trắng nẹp kín một đầu thu giữ khi bắt quả tang Trần Kim Q, 01 gói nilon màu trắng được nẹp kín, bên trong có chứa 100 túi nilon màu trắng nẹp kín một đầu thu giữ của Cầm Thế H. Quá trình điều tra xác định có liên quan đến tội phạm và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số ma túy thu giữ khi khám xét nơi ở của Cầm Thế H có trọng lượng 0,17 gam ma túy, loại: Methamphetaminen. Sau khi dùng giám định Cơ quan giám định hoàn lại 0,13 gam ma túy, loại: Methamphetamine mẫu vật. Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.

[2.8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[2.9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Cầm Thế H phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo 10 năm 06 tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18-9-2018.

3. Về vật chứng:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Truy thu sung công quỹ Nhà nước của bị cáo số tiền 2.300.000đ.

+ Tịch thu của bị cáo 01 giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 011965, mang tên Cầm Thế H; 01 xe môtô Biển kiểm soát 21E1-283.03 nhãn hiệu HONDA WAVE RSX; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen bàn phím nổi, 01 cân điện tử màu đen đã qua sử dụng sung quỹ Nhà nước.

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,13 gam ma túy, loại: Methamphetamine, 01 gói nilon màu trắng được nẹp kín, bên trong có chứa 100 túi nilon màu trắng nẹp kín một đầu thu giữ của Cầm Thế H và 01 vỏ chai nhựa; 01 ống hút nhựa; 01 vỏ giấy bạc và 01 vỏ túi nilon màu trắng nẹp kín một đầu thu giữ khi bắt quả tang Trần Kim Q.

4. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Cầm Thế H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo đối với bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

" Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự " .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về