Bản án 10/2019/HS-ST ngày 06/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 06/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, Tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2019/HSST ngày 24 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/QĐXXST-HS ngày 20/02/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn V, sinh năm 1992 tại xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: xóm Mỹ Hóa, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn Q (đã chết) và bà Vũ Thị H; Vợ,con chưa có; tiền án, tiền sự : không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/11/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 22/11/2018 (có mặt ).

*Người làm chứng: Ông Nguyễn Mạnh H1 và anh Dương Văn H2 (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Trần Văn V là người sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2018 bằng hình thức chích hê rô in. Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 21/11/2018, V mang theo 02 xi lanh và 01 ống Novocain đi bộ từ nhà ra đường 481 rồi đi nhờ xe của người đi đường lên khu vực nghĩa địa thuộc xóm 5, xã C tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây V gặp người đàn ông không quen b iết và mua được của người này 04 gói ma túy với giá 300.000đ rồi cầm ở tay phải đi bộ tìm nơi s ử dụng. Khi đi đến đoạn đường bê tông thuộc xóm 5, xã C, thấy vắng người nên dừng lại định sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện K phát hiện bắt quả tang thu giữ trên tay phải của bị cáo 04 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, 02 xi lanh và 01 ống novocain. Kiểm tra bên trong bốn gói nhỏ thu giữ của của bị cáo là chất bột dạng cục màu trắng, có trọng lượng lần lượt là 0,12gam (ký hiệu M1); 0,11 gam (ký hiệu M2); 0,13 gam (ký hiệu M3) và 0,13 gam (ký hiệu M4) gửi toàn bộ đi giám định.

Bản kết luận giám định số 15/KLGĐ-PC09-MT ngày 22/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi tới giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1162 gam, M2 có khối lượng 0,1161 gam; M3 có khối lượng 0,1249 gam; M4 có khối lượng 0,1260 gam. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong 04 mẫu giám định ký hiẹu M1, M2, M3, M4 là 0,4832 gam là chất ma túy, loại hê rô in.

Bản cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 22/01/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo Trần Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng nêu trên và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Trần Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Văn V từ 15 đến 18 tháng tù.

Áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng đã thu giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay bị cáo Trần Văn V hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo khai nhận bản thân sử dụng ma tuý từ đầu năm 2018 bằng hình thức chích hê rô in. Đầu giờ chiều ngày 21/11/2018 bị cáo đi nhờ xe của một người đi đường lên khu vực xã C tìm mua ma túy để sử dụng, tại khu vực nghĩa địa xã C bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết, đoán là người nghiện ma túy nên đã hỏi và mua được của người đó 04 gói hêrôin với giá 300.000đ, bị cáo cầm trong lòng bàn tay phải rồi đi bộ trở lại tìm nơi vắng để sử dụng, khi tới đoạn đường bê tông thuộc xóm 5, xã C, thấy vắng người b ị cáo dừng lại định lấy gói ma túy ra sử dụng thì bị công an huyện K phát hiện bị cáo đang cầm các gói ma túy trên tay, bị cáo đã tự giác giao nộp 04 gói hê rô in cùng 02 bơm tiêm và 01 ống novocain cho cơ quan Công an và khai nhận đó là các gói hê rô in bị cáo vừa mua nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những ngư ời làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, b iên bản cân xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, kết luận giám định các gói bột thu giữ của bị cáo.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận với hành vi cất giấu trong người 0,4832gam Hêrô in nhằm mục đích sử dụng, bị cáo Trần Văn V đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và biết rõ nhà nước có những quy định xử lý nghiêm khắc đối với những người có hành vi liên quan đến ma túy như ng bị cáo vẫn thực hiện hành vi đi mua hêrôin tàng trữ để sử dụng cho bản thân, vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo trước pháp luật, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian tư ơng xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Khi lượng hình cũng cần xem xét đến việc bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, đã tự giác giao nộp các gói hê rô in cho cơ quan Công an; quá trình giải quyết vụ án bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

[4] Về nguồn gốc Hêrôin: Bị cáo khai mua của một ngư ời đàn ông khoảng 40 tuổi ở khu vực nghĩa địa xã C, bị cáo không quen biết người đó, có gặp lại cũng không nhận dạng được vì vậy cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.

[5] Về xử lý vật chứng: Số vật chứng sau khi giám định còn lại là 01 phong bì niêm phong ghi số 15/KLGĐ-PC09-MT trên giáp lai có chữ ký của bên giao bên nhận và đóng dấu của phòng ký thuật hình sự, bên trong có chứa vật chứng còn lại và vỏ bao gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có vỏ gói ngoài các gói nhỏ ma túy là giấy bạc màu vàng và vỏ phong bì niêm phong khi thu giữ vật chứng của b ị cáo; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có 02 xi lanh loại 3ml và 01 ống novocain 3% chưa sử dụng, đây là những vật không còn giá trị sử dụng, vật nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu huỷ.

[6] Về án phí: Bị cáo Trần Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện hành vi tố tụng hoàn toàn hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Văn V 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 21/11/2018.

Áp dụng Điều 47 BLHS; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 15/KLGĐ-PC09-MT trên giáp lai có chữ ký của bên giao bên nhận và đóng dấu của phòng ký thuật hình sự, bên trong có chứa vật chứng còn lại và vỏ bao gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có vỏ gói ngoài các gói nhỏ ma túy là giấy bạc màu vàng và vỏ phong bì niêm phong khi thu giữ vật chứng của bị cáo; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có 02 xi lanh loại 3ml và 01 ống novocain 3% chưa sử dụng.

Căn cứ Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, buộc bị cáo Trần Văn V phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thực hiện theo quy định tại Đ iều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Đ iều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 06/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về