Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 23/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH  

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 27/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 03 năm 2019 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị V, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Thôn QB, xã HL, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn QB, xã HL, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 13/02/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Trịnh Thị V trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Nguyễn Văn P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã HL, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa ngày 12/9/2014. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc từ khi kết hôn đến tháng 01 năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh P có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng thường xuyên cãi cọ, mắng chửi nhau. Từ tháng 01 năm 2016 đến nay vợ chồng sống ly thân. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị V đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn P.

Về con chung: Chị V khai vợ chồng có một con chung, cháu tên là Nguyễn Công M, sinh ngày 27/02/2015. Chị V đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M, không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập anh P đến Toà án để viết bản khai, nhưng anh P không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của anh P.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị V đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh P, đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M, không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 56, Điều 81, 82,83 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên hoà giải nhưng anh P không có mặt nên Toà án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh P cũng được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, chị V vắng mặt tại phiên toà nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh P và chị V là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Trịnh Thị V và anh Nguyễn Văn P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc từ khi kết hôn đến tháng 01 năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn, theo chị V là do anh P có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng thường xuyên cãi cọ, mắng chửi nhau. Theo biên bản xác minh ngày 15/3/2019 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã HL, bố mẹ đẻ của anh P là ông Nguyễn Văn Đ và bà Bùi Thị K cung cấp thông tin thì sở dĩ vợ chồng anh P, chị V mâu thuẫn, chửi mắng lẫn nhau và sống ly thân từ tháng 01/2016 đến nay là do anh P có quan hệ qua lại với người phụ nữ ở huyện Thạch Thành. Như vậy, trong cuộc sống vợ chồng giữa chị V và anh P luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột dẫn đến sống ly thân. Một thời gian dài vợ chồng không sống chung và không còn quan tâm đến nhau nữa, thực sự cuộc sống vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Cần căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị V được ly hôn anh P là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị V khai, chị và anh P có một con chung, cháu tên là Nguyễn Công M, sinh ngày 27/02/2015. Chị V cũng xuất trình cho Tòa án giấy khai sinh của cháu M, trong đó xác định cháu M là con chung của chị V anh P. Mặt khác, cháu M sinh ra trong thời kỳ hôn nhân, như vậy đủ cơ sở khẳng định cháu Nguyễn Công M là con chung của chị V và anh P. Xét thấy cháu M còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ, cháu M lại đang do chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Để tránh sự xáo trộn về tâm sinh lý của cháu, nên giao cháu M cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị V không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị, cần ghi nhận sự tự nguyện của chị V.

[4]. Về tài sản: Chị V không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Trịnh Thị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83; khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trịnh Thị V và anh Nguyễn Văn P.

2. Về con chung: Công nhận cháu Nguyễn Công M, sinh ngày 27/02/2015 là con chung của chị Trịnh Thị V và anh Nguyễn Văn P. Giao cháu M cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị V về việc không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị V. Anh P có quyền đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trịnh Thị V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị V đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0000425 ngày 01/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị V đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị V, anh P có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 2 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 23/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về