Bản án 10/2018/HNGĐ-ST ngày 09/02/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 10/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 09 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý 580/2017/TLST-HNGĐ ngày 25/10/2017 về “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 06/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/01/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/01/2018 giữa các đương sự :

Nguyên đơn Bà Võ Thị Ánh H – sinh năm 1985.

Nơi cư trú: khu phố 3, phường H, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Bị đơn: Ông Nguyễn Minh H – sinh năm 1975.

Nơi cư trú: khu phố 1, phường Đ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa: có mặt bà H, vắng mặt ông H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại nội dung đơn kiện, bản khai nguyên đơn trình bày:

Bà Võ Thị Ánh H và ông Nguyễn Minh H chung sống và đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố Phan Thiết vào ngày 26/9/2008.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cải vả nhau nhuyên nhân là do cách sống và tính tình không hợp nhau. Nay bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không còn có thể hàn gắn với nhau và cũng đã tự quyết định sống xa nhau, không ai quan tâm đến ai, nên bà H làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn với ông Nguyễn Minh H.

- Về con chung: Ông bà có 03 con chung tên Nguyễn Võ Yến N (nữ) – sinh ngày 29/5/2008; Nguyễn Võ Như Y (nữ) – sinh ngày 12/02/2011 và Nguyễn Phi L (nam)sinh ngày 26/3/2012.

Theo đơn khởi kiện, nguyện vọng sau khi ly hôn bà H yêu cầu nuôi 02 con tên Nguyễn Võ Yến N (nữ) – sinh ngày 29/5/2008; Nguyễn Võ Như Y (nữ) – sinh ngày 12/02/2011; ông Hưng nuôi con Nguyễn Phi L (nam) – sinh ngày 26/3/2012. Không ai cấp dưỡng tiền nuôi con cho ai.

Ngày 05/01/2018 bà H có đơn thay đổi yêu cầu về việc nuôi con, nguyện vọng sau khi ly hôn bà H yêu cầu nuôi 03 con chung và yêu cầu ông H cấp dưỡng tiền nuôi 03 con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

- Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, bà H trình bày: vẫn giữ ý kiến trên, bà H xác định mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng, vợ chồng đã tự sống xa nhau từ tháng 7/2017 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai, hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn với ông H. Về con chung: có 03 con chung tên Nguyễn Võ Yến N (nữ) – sinh ngày 29/5/2008; Nguyễn Võ Như Y (nữ) – sinh ngày 12/02/2011 và Nguyễn Phi L (nam) – sinh ngày 26/3/2012. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung và yêu cầu ông H cấp dưỡng tiền nuôi 03 con mỗi tháng 2.100.000 đồng (mỗi cháu 700.000 đồng/tháng). Về tài sản chung, nợ chung: Bà Hkhai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Minh H nhưng vẫn vắng mặt nên không thể ghi được lời khai của ông H về yêu cầu xin ly hôn của bà H.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thông qua việc kiểm sát thụ lý, lập hồ sơ vụ án và kiểm sát trực tiếp tại phiên tòa, Viện kiểm sát có ý kiến như sau :- Về tố tụng: từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán, Thư ký chấp hành đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ tranh chấp và tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng. Thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn mở phiên tòa, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự quy định.

Tại phiên tòa hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tiến hành các trình tự thủ tục đúng theo quy định của pháp luật.

Đối với người tham gia tố tụng: nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật và chấp hành tốt nội quy phiên tòa. Bị đơn không chấp hành đúng các quy định của pháp luật và vắng mặt tại phiên tòa.

- Về nội dung: Viện kiểm sát thấy rằng tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã thể hiện hôn nhân của bà Võ Thị Ánh H và ông Nguyễn Minh H là hợp pháp, ông bà tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố Phan Thiết vào ngày 26/9/2008. Quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không thể hàn gắn được với nhau chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó đề nghị xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Võ Thị Ánh H được ly hôn ông Nguyễn Minh H.

Về con chung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà H, giao 03 con chung cho  bà H trực tiếp nuôi  dưỡng, ông  H cấp  dưỡng  tiền  nuôi  con  chung  mỗi  tháng 2.100.000 đồng cho đến khi các con chung tròn 18 tuổi và có khả năng lao động.

Về tài sản chung, nợ chung: bà H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Viện kiểm sát không có ý kiến

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Thiết, hội đồng xét xử nhận định :

* Về tố tụng dân sự: Bà Võ Thị Ánh H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn, nuôi con chung. Bị đơn là ông Nguyễn Minh H hiện đang cư trú tại thành phố Phan Thiết, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ, nhưng ông Nguyễn Minh H vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

* Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân của bà Võ Thị Ánh H và ông Nguyễn Minh H là hợp pháp, ông bà tự nguyện đi đến hôn nhân, chung sống và đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố Phan Thiết vào ngày 26/9/2008. Theo bà H khai: sau khi cưới vợ chồng sống bình thường hạnh phúc được một thời gian sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do ông H không có trách nhiệm với gia đình, vợ con nên vợ chồng hay cải vã nhau, mặc dù vợ chồng cố gắng hòa giải tiếp tục chung sống để nuôi dạy con chung nhưng thực tế cuộc sống vẫn không có hạnh phúc, không thể tiếp tục chung sống được nữa nên tháng 7/2017 vợ chồng tự sống xa nhau, không ai quan tâm đến ai. Nay bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên làm đơn khởi kiện xin ly hôn ông Nguyễn Minh H.

Do ông Nguyễn Minh H vắng mặt nên không thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của bà Võ Thị Ánh H.

Xét yêu cầu của bà H HĐXX thấy rằng: Theo luật hôn nhân và gia đình quy định là vợ chồng thì phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, đồng thời phải biết tôn trọng, giữ gìn danh dự, uy tín cho nhau nhưng thực tế cuộc sống hôn nhân của ông bà không còn hạnh phúc, ông bà không còn thương yêu nhau và đã tự quyết định sống xa nhau từ tháng 7/2017 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Như vậy, chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Để đảm bảo quyền lợi và nhằm ổn định cuộc sống cho các bên, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H. Bà H được ly hôn với ông Nguyễn Minh H.

Về con chung: Ông bà có 03 con chung tên Nguyễn Võ Yến N (nữ) – sinh ngày 29/5/2008; Nguyễn Võ Như Y (nữ) – sinh ngày 12/02/2011 và Nguyễn Phi L (nam)–sinh ngày 26/3/2012, hiện nay các con đang chung sống với bà Hưng tại gia đình ông bà ngoại nên sau khi ly hôn bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung. Xét thấy, hiện nay 03 con chung đang do bà H trực tiếp nuôi dưỡng, cuộc sống của các cháu đang ổn định, ông H cũng không có ý kiến gì đối với việc yêu cầu nuôi con của bà H, vì vậy nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà H, tiếp tục giao 03 con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

- Về tiền cấp dƣỡng nuôi con: bà H yêu cầu ông H cấp dưỡng tiền nuôi một con mỗi tháng 700.000 đồng, 03 con mỗi tháng là 2.100.000 đồng. Xét thấy, việc cấp dưỡng tiền nuôi con là nghĩa vụ của cha mẹ đối với các con chung, số tiền bà H yêu cầu mỗi tháng một cháu là 700.000 đồng cũng tương đối hợp lý vì vậy nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà H, buộc ông H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi 03 con chung mỗi tháng là 2.100.000 đồng (một cháu là 700.000 đồng/tháng) cho đến khi các con chung tròn 18 tuổi và có khả năng lao động.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

- Về án phí: bà H phải chịu 300.000 đồng án phí về việc xin ly hôn, ông H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Áp dụng: khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 83, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật Hôn nhân gia đìnhNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

2/ Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Ánh H.

- Về hôn nhân: Bà Võ Thị Ánh H được ly hôn với ông Nguyễn Minh H.

- Về con chung: Giao 03 con chung tên Nguyễn Võ Yến N (nữ) – sinh ngày 29/5/2008; Nguyễn Võ Như Y (nữ) – sinh ngày 12/02/2011 và Nguyễn Phi L (nam) sinh ngày 26/3/2012 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc ông Nguyễn Minh H có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi 03 con chung mỗi tháng 2.100.000 đồng (mỗi con 700.000 đồng/tháng) cho đến khi các con chung tròn 18 tuổi và có khả năng lao động. Ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

- Về án phí: Bà Võ Thị Ánh H phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, ông Nguyễn Minh H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Ngày 25/10/2017 bà H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết thu theo biên lai số 0020032, nay chuyển sang án phí và sung công quỹ nhà nước.

- Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, đối với bà Võ Thị Ánh H kể từ ngày tuyên án (09/02/2018), đối với ông Nguyễn Minh H kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HNGĐ-ST ngày 09/02/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:10/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về