Bản án 101/2019/HS-ST ngày 20/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 101/2019/HS-ST NGÀY 20/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Đức M, tên gọi khác: không có; sinh ngày 10/11/1991, tại Hà Trung, Thanh Hóa. Nơi ĐKHKTT: Thôn 1, xã H, huyện H.T, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Tổ 3, khu 1, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đoàn thể: Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (Đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng ngày 19/6/2019); con ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 12/6/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Anh Phạm Văn H, sinh năm: 1971.

Đa chỉ: Tổ 3, khu 9, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Anh Lại Văn P, sinh năm: 1979.

Đa chỉ: Tổ 26, khu 7, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ 45 phút, ngày 12/6/2019, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố U phối hợp với Công an phường Q, thành phố U làm nhiệm vụ tại tổ 3, khu 1, phường Q, thành phố U, kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Phạm Đức M có hành vi tàng trữ trái phép tại lòng bàn tay trái 01 túi nilon kích thước (2x2)cm đựng chất tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của M: 01 xe mô tô Honda Wave, BKS 14Y1-056.91; 01 điện thoại Iphone màu trắng gắn kèm theo sim 0799.270.887; 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Phạm Đức M và 250.000 đồng. Cùng ngày tiến hành khám xem tại chỗ ở của M Công an thu giữ 01 chai nhựa màu trắng đục 02 lỗ nhỏ, 01 lỗ gắn 01 ống nhựa màu trắng dạng xoắn, dài 15cm, đường kính 0,5cm; 01 lỗ gắn với 01 ống thủy tinh màu trắng dài khoảng 20cm, 01 đầu thẳng, 01 đầu uốn cong có bầu tròn, bên trong có dính chất dạng vết màu đen. M khai nhận là dụng cụ để M sử dụng ma túy “đá”.

Tại Kết luận giám định số 515/GĐMT, ngày 15/6/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng và chất dạng vết màu đen gửi giám định là ma túy; loại Methamphetamine; chất tinh thể màu trắng có khối lượng 0,229 gam; chất dạng vết màu đen không xác định được khối lượng.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa Phạm Đức M khai nhận: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 12/6/2019, do muốn mua ma túy về sử dụng, M điều khiển xe mô tô BKS 14Y1-056.91 mượn của bạn đến nhà 01 người đàn ông tên N (ở khu vực ngõ chợ đêm thuộc phường T, thành phố U) gặp và hỏi mua 400.000 đồng ma túy loại “đá”. Người đàn ông này đưa cho M 01 túi nilon màu trắng, kích thước (2x2)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, M kiểm tra đúng loại ma túy cần mua rồi trả tiền và đi về. Đến khoảng 17 giờ 45 phút ngày 12/6/2019 M cầm số ma túy mua lúc trước trong lòng bàn tay trái, đi xe mô tô đến khu vực tổ 3, khu 1, phường Q, thành phố U thì bị bắt quả tang.

Tại cáo trạng số: 108/CT-VKSUB ngày 27/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 12/6/2019.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời, đề nghị HĐXX miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 515/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và 01 chai nhựa màu trắng đục 02 lỗ nhỏ, 01 ống nhựa màu trắng dạng xoắn. Trả lại bị cáo 250.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

+ Đối với 01 điện thoại di động Iphone màu trắng gắn sim 0799.270.887, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Phạm Đức M, Cơ quan điều tra đã trả lại cho gia đình bị cáo quản lý, nên không đề cập.

+ Đối với xe mô tô Honda Wave, BKS 14Y1-056.91 chủ sở hữu hợp pháp là anh Vũ Quý D, sinh năm 1983, trú tại tổ 28, khu 4, phường B, thành phố U. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh D, nên không đề cập.

+ Đối với người đàn ông tên N, M khai là người đã bán ma túy cho M. Quá trình điều tra xác định là Đinh Đức N (sinh năm 1964, trú tại tổ 3, khu 1, phường T, thành phố U), nhưng N hiện vắng mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục làm rõ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người chứng kiến anh Phạm Văn H, anh Lại Văn P và nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Q, thành phố U lập hồi 17 giờ 55 phút, ngày 12/6/2019, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 45 phút, ngày 12/6/2019, tại tổ 3, khu 1, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Đức M là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi tàng trữ trái phép 0,229 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt giữ, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức đầy đủ hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng với ý thức coi thường pháp luật bị cáo đã cố ý phạm tội. Vì vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc với bị cáo.

* Tình tiết tăng nặng: Không có.

*Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào nhân thân, hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Số ma túy Methamphetamine, thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm tàng trữ; 01 chai nhựa màu trắng, 01 ống hút nhựa màu trắng không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy. Số tiền 250.000 đồng thu giữ của bị cáo là tiền do bị cáo lao động mà có, không liên quan đến tội phạm, nên trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

+ Đối với 01 điện thoại di động Iphone màu trắng gắn sim 0799.270.887, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Phạm Đức M, Cơ quan điều tra đã trả lại cho gia đình bị cáo quản lý; 01 xe mô tô Honda Wave, BKS 14Y1-056.91 chủ sở hữu hợp pháp là anh Vũ Quý D, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh D, nên HĐXX không xem xét.

[5] Nhng tình tiết khác trong vụ án: Đối với người đàn ông tên N, M khai là người đã bán ma túy cho M. Quá trình điều tra xác định là Đinh Đức N (sinh năm 1964, trú tại tổ 3, khu 1, phường T, thành phố U), nhưng N hiện vắng mặt tại địa phương, nên Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục làm rõ xử lý sau.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Bị cáo Phạm Đức M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

 Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phạm Đức M 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 12/6/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 515/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 chai nhựa màu trắng; 01 ống nhựa màu trắng dạng xoắn. Trả lại bị cáo 250.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 8 năm 2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Đức M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2019/HS-ST ngày 20/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:101/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về