Bản án 101/2019/HSST ngày 03/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 101/2019/HSST NGÀY 03/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 111/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2019/QĐ-TA ngày 19 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1998 tại Hà Nội; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký NKTT và cư trú: Thôn Đ, xã M, huyện T, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí tự do; Con ông: Nguyễn Văn Th, sinh năm: 1972; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1974; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Tiền án, Tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 32 lập ngày 21/12/2018; Bị bắt quả tang và giam giữ từ ngày 13/12/2018, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam ngày 14/01/2019, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Trần Văn L, sinh năm 1997 tại Hà Nội; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký NKTT và cư trú: Thôn Đ , xã M, huyện T, thành phố Hà Nộị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Khôn; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Thợ sửa chữa ô tô; Con ông: Trần Văn D, sinh năm: 1971; Nghề nghiệp: Thợ sửa chữa ô tô; Con bà: Nguyễn Thị P, sinh năm: 1970; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Tiền án, Tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 33 lập ngày 21/12/2018; Bị bắt quả tang và giam giữ từ ngày 13/12/2018, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam ngày 14/01/2019, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 ngày 13/12/2018, bị cáo Trần Văn L đến phòng trọ của bị cáo Nguyễn Văn Đ ở số 151, đường B, phường Đức Thắng, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội chơi. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, hai bị cáo rủ nhau đi mua ma túy đá về sử dụng. Bị cáo Đ gọi điện đến số điện thoại 0904606045 của một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá và hẹn gặp ở khu vực phía sau Bến xe Mỹ Đình để giao dịch. Bị cáo Đ điều khiển xe máy không biển kiểm soát màu đỏ, số khung: 024545, số máy: 024545 chở bị cáo L đến Bến xe Mỹ Đình để nhận ma túy. Tại cổng ra Bến xe Mỹ Đình thuộc phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, bị cáo Đ gọi điện đến số 0904606045 thì có một người đàn ông đến chỗ các bị cáo đứng đưa cho bị cáo Đ một gói ma túy, bị cáo Đ đưa cho người đàn ông đó 500.000 đồng. Hai bị cáo mang ma túy về phòng trọ cùng nhau sử dụng.

Đến 21 giờ 00 cùng ngày do hết ma túy, bị cáo Đ tiếp tục rủ bị cáo L đến chỗ cũ mua ma túy. Đến nơi, bị cáo Đ bảo bị cáo L đợi còn bị cáo Đ đi bộ vào vệ đường cách chỗ bị cáo L đứng khoảng 5m và gọi điện đến số 0904606045 hỏi mua ma túy. Khoảng 05 phút sau, một người đàn ông đến đưa cho bị cáo Đ một túi nilong màu trắng, kích thước khoảng (1,5x2)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. Bị cáo Đ cất ma túy vào trong túi quần bên trái và đưa cho người đàn ông đó 300.000 đồng. Sau đó, bị cáo L chở bị cáo Đ về phòng trọ. Khi các bị cáo đi đến ngã tư giao nhau giữa đường Phạm Văn Đồng và đường Tân Xuân thuộc phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội thì bị tổ công tác Y17-141 Công an thành phố Hà Nội và Công an phường Xuân Đỉnh bắt quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng vụ án thu giữ của bị cáo của bị cáo Đ: 01 túi nilong màu trắng, kích thước khoảng (1,5x2) cm bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, 01 xe máy màu đỏ, không có biển kiểm soát, số khung: 024545, số máy: 024545, 01 điện thoại Samsung A7 màu đen, gắn sim số 0357466566; Thu giữ của bị cáo L 01 điện thoại kiểu dáng Iphone5 màu vàng, số Imei: 358844054841688 đã qua sử dụng, gắn sim số 0964778570 Tại Bản kết luận giám định số 9466/ KLGĐ – PC 09 ngày 21/12/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,334 gam.

Số điện thoại 0904606045 mà bị cáo Đ gọi để mua ma túy, có chủ thuê bao mang tên Nguyễn Văn M, sinh năm: 1978; HKTT: Xã Y, huyện H, thành phố Hà Nội, nhưng M thường xuyên vắng mặt tại địa phương, địa phương không rõ Mạnh đi đâu làm gì.Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm ra quyết định tách rút tài liệu, tách các tài liệu liên quan đến Nguyễn Văn M để tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Chiếc xe máy không biển kiểm soát màu đỏ, số khung: 024545, số máy: 024545 thu giữ của bị cáo Đ, không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, đăng ký mang tên Nguyễn Văn H, sinh năm: 1952; HKTT: xã V, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Ông H đăng ký chiếc xe nhãn hiệu Detech màu xanh từ tháng 06/2004 đến tháng 7/2017 đã bán chiếc xe trên cho ông Nguyễn Văn Th (Bố bị cáo Đ). Do xe cũ nên ông Th đã sơn lại sang màu đỏ, chiếc xe máy bị gẫy phần đuôi xe rời biển số, chưa kịp lắp lại. Từ ngày 12 đến ngày 15/12/2018 ông Th cho bị cáo Đ mượn để đi lại. Ông Th không biết bị cáo sử dụng xe đi để mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm đã trả chiếc xe máy trên cho ông Th.

Tại Cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 29/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Trần Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ mức án từ 16 đến 20 tháng tù; Xử phạt bị cáo Trần Văn L mức án từ 14 đến 18 tháng tù; Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữa của các bị cáo; Tịch thu xung công quỹ 01 điện thoại Samsung A7 màu đen, gắn sim số 0357466566; Trả lại cho bị cáo L chiếc điện thoại kiểu dáng Iphone 5 màu vàng gắn sim số 0964778570; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Khoảng 22 giờ 15 phút ngày 13/12/2018, tại khu vực ngã tư đường Phạm Văn Đồng giao với đường Tân Xuân thuộc tổ dân phố Cáo Đỉnh 4, phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, bị cáo Nguyễn Văn Đ và bị cáo Trần Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,334 gam Methamphetaime để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của các bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt áp dụng đối với các bị cáo được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo biết rõ ma túy tổng hợp là chất gây nghiện làm tổn hại sức khỏe con người đặc biệt là sức khỏe tâm thần của người sử dụng, là mầm mống của các loại tội phạm khác. Nhà nước đã nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ… trái phép nhưng các bị cáo vẫn mua, tàng trữ để sử dụng. Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm, cùng rủ nhau mua ma túy về sử dụng.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử. Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Hình phạt chính: Đối với các bị cáo cần áp dụng một hình phạt tù nghiêm, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo tính giáo dục đối với các bị cáo và tính phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Vật chứng vụ án:Số ma túy thu giữ của các bị cáo là chất gây nghiện, bị nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc điện thoại Samsung A7 màu đen, số thuê bao 0357466566 thu giữ của bị cáo Đ là phương tiện để bị cáo giao dịch mua ma túy, liên quan đến tôi phạm cần tịch thu sung công quỹ. Chiếc điện thoại kiểu dáng Iphone 5 màu vàng có số thuê bao 0964778570, số Imei: 358844054841688 thu giữ của bị cáo L không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo.

- Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, cơ quan điều tra, điều tra viên, cơ quan kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các quyền nghĩa vụ của mình, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, khởi tố, kết luận điều tra, truy tố theo đúng tội danh, khung hình phạt.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ và bị cáo Trần Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thị hành án được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 13/12/2018 đến ngày 14/01/2019.

2.2. Xử phạt bị cáo Trần Văn L 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 13/12/2018 đến ngày 14/01/2019.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí.

3.1. Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy, bên ngoài có chữ ký giáp lai của bị cáo Nguyễn Văn Đ và giám định viên. Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại Samsung A7 màu đen, lắp sim số 0357466566đã qua sử dụng. Trả lại cho bị cáo L chiếc điện thoại kiểu dáng Iphone 5 màu vàng lắp sim số 0964778570, số Imei: 358844054841688 đã qua sử dụng.

3.2. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2019/HSST ngày 03/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:101/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về