TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 100/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ LY HÔN VÀ CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TNn, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 146/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn và con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 25 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 86/2021/QĐST- HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thùy Tr; địa chỉ: Thôn Đn, xã LĐ, huyện TNn, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Phạm Duy Đ; địa chỉ đăng ký thường trú: Số 108, Lô 1, TP, phường CT, quận NQ, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Vũ Thùy Tr trình bày: Chị và anh Phạm Duy Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện vào năm 2013, có được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường CT, quận NQ, thành phố Hải Phòng vào ngày 23 tháng 01 năm 2014. Sau khi cười vợ chồng về chung sống tại số 108, Lô 1, TP, phường CT, quận NQ, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến cuối năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Do mâu thuẫn nên chị Tr đã về nhà bố mẹ đẻ tại thôn Đn, xã LĐ, huyện TNn, thành phố Hải Phòng sinh sống từ cuối năm 2014 đến nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nguyên nhân do anh Đ không quan tâm và không có trách nhiệm với vợ con và sa vào tệ nạn xã hội nên phải đi chấp hành án trong trại giam từ năm 2019. Chị Tr nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Duy Đ.
Về con chung: Chị và anh Phạm Duy Đ có 01 con chung tên Phạm Liên Chi, sinh ngày 06 tháng 12 năm 2013, từ khi ly thân đến nay chị là người trực tiếp nuôi con chung, hơn nữa hiện nay anh Duy đang phải đi chấp hành án nên chị Tr đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con để chị và anh Phạm Duy Đ tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Tr trình bày vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ý kiến và đề nghị của bị đơn là anh Phạm Duy Đ: Anh Đ thống nhất với trình bày của chị Tr về thời gian, điều kiện kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng hòa thuận được khoảng 01 năm, chị Tr bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ đó đến nay. Nguyên nhân là do anh đi làm xa, thường xuyên không về nhà. Nay, chị Tr xin ly hôn, anh cũng đồng ý. Về con chung: Thống nhất với trình bày của chị Tr vợ chồng có 01 con chung. Trường hợp ly hôn, do anh đang phải chấp hành án nên con chung để chị Tr tiếp tục nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, để anh và chị Tr tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn đều đã chấp hành đúng quy định của pháp luật và có đơn xin xét xử vắng mặt. Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Vũ Thùy Tr được ly hôn anh Phạm Duy Đ. Về con chung: Giao con chung tên: Phạm Liên Chi, sinh ngày 06 tháng 12 năm 2013 cho chị Vũ Thùy Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thùy Tr và anh Phạm Duy Đ không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết; Về tài sản chung: Chị Vũ Thùy Tr và anh Phạm Duy Đ không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết. Chị Vũ Thùy Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Bản sao Sổ hộ khẩu gia đình; Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy chứng minh nhân dân mang tên Vũ Thùy Tr; Bản sao giấy khai sinh mang tên Phạm Liên Chi; Đơn lựa chọn Tòa án giải quyết; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã LĐ, huyện TNn, thành phố Hải Phòng; Bản tự khai của chị Vũ Thùy Tr; Biên bản ghi ý kiền của anh Phạm Duy Đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Nguyên đơn và bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt và đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thùy Tr và anh Phạm Duy Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường CT, quận NQ, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 09, ngày 23 tháng 01 năm 2014 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến cuối năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, anh Đ không quan tâm đến vợ con. Do mâu thuẫn và anh Đ đang phải chấp hành án trong trại giam nên vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay không còn quan tâm đến nhau. Nay để ổn định cuộc sống chị Tr đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ. Chị Tr và anh Đ đều thống nhất trình bày và thừa nhận vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn từ cuối năm 2014, do mâu thuẫn nên chị Tr đã về nhà bố mẹ tại thôn Đn, xã LĐ, huyện TNn, thành phố Hải Phòng sinh sống từ cuối năm 2014 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân xã LĐ thể hiện, mâu thuẫn giữa chị Tr và anh Đ phát sinh từ cuối năm 2014 do anh Đ vi phạm pháp luật nên chị Tr đã về sinh sống tại địa phương từ đó đến nay. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Tr và anh Đ đã kéo dài và không còn khả năng đoàn tụ được nữa, chị Nga xin ly hôn anh Đ cũng đồng ý ly hôn. Vì vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tr, cho chị Vũ Thùy Tr được ly hôn anh Phạm Duy Đ.
[3]. Về con chung: Chị Vũ Thùy Tr và anh Phạm Duy Đ có 01 con chung tên: Phạm Liên Chi, sinh ngày sinh ngày 06 tháng 12 năm 2013, kể từ khi vợ chồng sống ly thân và anh Đ đi chấp hành án đến nay con chung do chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, khi ly hôn chị Tr đề nghị được tiếp tục nuôi con chung, con chung có nguyện muốn ở với chị Tr và anh Đ cũng đồng ý để chị Tr trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh tại địa phương con chung hiện nay đang do chị Tr trực tiếp nuôi con chung vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, còn anh Đ đang chấp hành án trong trại giam nên không có đủ điện kiện nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao các con chung tên: Phạm Liên Chi, sinh ngày sinh ngày 06 tháng 12 năm 2013 cho chị Vũ Thùy Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thùy Tr và anh Phạm Duy Đ đều trình bày để chị Tr và anh Đ tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4]. Về tài sản chung:
Chị Vũ Thùy Tr và anh Phạm Duy Đ đều trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. [5] Về án phí:
Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Vũ Thùy Tr phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử :
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vũ Thùy Tr được ly hôn anh Phạm Duy Đ.
2. Về con chung: Giao 01 con chung tên Phạm Liên Chi, sinh ngày sinh ngày 06 tháng 12 năm 2013 cho chị Vũ Thùy Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Vũ Thùy Tr phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015833, ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TNn thành phố Hải Phòng. Chị Vũ Thùy Tr đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 100/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn và con chung khi ly hôn
Số hiệu: | 100/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về