Bản án 100/2020/HS-ST ngày 20/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 100/2020/HS-ST NGÀY 20/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 96/2020/HSST ngày 11 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2020/QĐXXST-HS ngày 10/4/2020 đối với các bị cáo:

1.Phạm Thị Phượng Q, sinh năm 1998 tại tỉnh Khánh Hòa; thường trú: 125/8 đường T, phường T, Thành phố T, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; con ông Phạm H (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1977; bị cáo có 02 chị em ruột, bị cáo là thứ 1; tiền sự, tiền án: Không có. Bị cáo bị bắt giam ngày 17/12/2019 cho đến nay, bị cáo có yêu cầu xét xử vắng mặt.

2. Đỗ Ngọc T, sinh năm 1999 tại tỉnh Sóc Trăng; thường trú: Khóm 6, phường 7, Thành phố T, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; con ông Đỗ Quốc T, sinh năm 1972 và con bà Phạm Thanh T, sinh năm 1974; bị cáo có 02 chị em ruột, bị cáo là thứ 2; tiền sự, tiền án: Không có. Bị cáo bị bắt giam ngày 17/12/2019 cho đến nay, bị cáo có yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng :

1. Chị Nguyễn Thị T1, vắng mặt

2. Anh Hoàng Chiến T2, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Phạm Thị Phượng Q, Đỗ Ngọc T là bạn. Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 16/12/2019, Q và T đến thuê phòng số 106 nhà nghỉ Phong Đô địa chỉ số 39 đường 8, khu phố Bình Đường 2, phường An Bình, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Tại đây, Q và T bàn bạc mỗi người góp 250.000 đồng mua ma túy sử dụng, Q sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A107F màu xanh, sim số 058.675.4235 điện thoại cho Ly (không rõ nhân thân) hỏi mua ma túy. Sau đó, Q đi bộ đến khu vực đường Lê Trọng Tấn khu phố Bình Đường 2, phường An Bình, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương mua 02 gói ma túy được quấn băng keo màu đen phía ngoài và dụng cụ sử dụng ma túy gồm chai nhựa, nỏ thủy tinh, ống hút của Ly giá 500.000 đồng. Sau đó Q đi về nhà nghỉ Phong Đô cất 02 gói ma túy đã mua vào trong túi xách màu đen và lấy dụng cụ sử dụng ma túy bên trong còn ít ma túy ra cả hai sử dụng. Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 17/12/2019, Đội cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an Thành phố Dĩ An kết hợp Công an phường An Bình kiểm tra hành chính phòng số 106 thu giữ trong phòng vệ sinh dụng cụ sử dụng ma túy (chai nhựa, nỏ thủy tinh, ống hút), sau đó Q lấy từ trong túi xách màu đen đang cầm trên tay ra 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng giao nộp và khai nhận là ma túy Q, T mua sử dụng nên bị lập biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú.

Vật chứng thu giữ: 02 (hai) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng được quấn băng keo màu đen phía ngoài; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A107F màu xanh, sim số 058.675.4235; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, sim số 092.788.0203; 01 (một) túi xách cầm tay màu đen; dụng cụ sử dụng ma túy gồm chai nhựa, nỏ thủy tinh, ống hút.

Vật chứng đã xử lý: Trả cho bị cáo Đỗ Ngọc T điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, sim số 0927.580.203 do không sử dụng vào việc phạm tội.

Căn cứ Kết luận giám định số 908/MT-PC09 ngày 23 tháng 12 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Tinh thể màu trắng trong 02 (hai) gói nylon hàn kín là ma túy, có khối lượng 0,1831 gam, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 134/CT-VKS ngày 11 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Phạm Thị Phượng Q, Đỗ Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo:

Phạm Thị Phượng Q từ 12 đến 15 tháng tù. Đỗ Ngọc T từ 12 đến 15 tháng tù.

Bị cáo Q, T yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Phạm Thị Phượng Q, Đỗ Ngọc T: Biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú, lời khai người làm chứng, biên bản lấy lời khai, quá trình tranh tụng tại phiên tòa thể hiện ngày 17/12/2019 khi kiểm tra hành chính bị cáo Phạm Thị Phượng Q, Đỗ Ngọc T thu giữ từ Q, T ma túy có trọng lượng 0,1831 gam loại Methamphetamine Q, T mua để sử dụng. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Như vậy, hành vi trên của bị cáo Q, T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 134/CT- VKS ngày 11/3/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Q, T không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra các bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đã đầu thú. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo Q, T có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo Q, T phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 05 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy, túi xách cầm tay màu đen, chai nhựa, nỏ thủy tinh, ống hút, sim điện thoại số 0586.754.235 do liên quan sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A107F màu xanh sử dụng vào việc phạm tội còn giá trị sử dụng cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[4] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, bị cáo Q, T cùng bàn bạc góp tiền mua ma túy sử dụng, các bị cáo tham gia với vai trò người thực hành. Do vậy, mức hình phạt bị cáo Q, T phải ngang nhau.

[5] Đối với người tên Ly không rõ nhân thân bán ma túy cho Q, Công an Thành phố Dĩ An tách điều tra xác minh xử lý sau.

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt đối với bị cáo Q, T cũng như việc xử lý vật chứng phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[7] Về thủ tục tố tụng

[7.1] Bị cáo Phạm Thị Phượng Q, Đỗ Ngọc T có yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt bị cáo Q, T.

[7.2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo Q, T phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Phượng Q, Đỗ Ngọc T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1.1 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Phượng Q 01 (một) năm tù.

1.2 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc T 01 (một) năm tù Thời hạn tù bị cáo Q, T tính từ ngày 17/12/2019.

2.Các biện pháp tư pháp Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư đã niêm bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy, có khối lượng còn lại sau giám định là 0,1436 gam loại Methamphetamine. Một túi xách cầm tay màu đen. Dụng cụ sử dụng ma túy gồm chai nhựa, nỏ thủy tinh và ống hút; sim số điện thoại 0586.754.235 + Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A107F màu xanh.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/3/2020 tại chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Các bị cáo Phạm Thị Phượng Q, Đỗ Ngọc T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2020/HS-ST ngày 20/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về