Bản án 100/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 100/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 511/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hoàng P, sinh năm 1994; HKTT: Ấp PA, xã BH, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long; địa chỉ tạm trú: Số 12, T, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Trần Thị Thảo T, sinh năm 1997; HKTT: Ấp BX, xã TB, huyện G, tỉnh Kiên Giang; địa chỉ tạm trú: Khu phố B, phường AT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng P, trình bày: Anh và chị T sau khi qua một thời gian tìm hiểu thì tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BH, huyện LH vào tháng 12 năm 2018. Sau khi kết hôn, anh và chị T cùng nhau chung sống bên gia đình cha mẹ chị T được hơn 01 tháng, thì anh và chị T cùng nhau thuê nhà trọ ở huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh để thuận tiện cho việc đi làm. Anh và chị T sống hạnh phúc không được bao lâu thì phát sinh mâu thuẫn. Đến tháng 3 năm 2019, anh và chị T phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do anh và chị T không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và mâu thuẫn về kinh tế gia đình. Anh và chị T hiện đã sống ly thân, từ khi ly thân vợ chồng không ai có thiện chí hàn gắn đoàn tụ. Chị T về sống chung nhà cha mẹ ruột chị T tại khu phố B, phường AT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh. Nay anh nhận thấy đời sống hôn nhân với chị T không thể kéo dài mục đích của hôn nhân không thể đạt được. Nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Trần Thị Thảo T.

Thời gian chung sống vợ chồng, anh và chị T không có con chung, anh xác nhận và cam kết hiện nay chị T không có mang thai.

Về tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, anh và chị T không có thiếu nợ ai, cũng như không ai thiếu nợ anh và chị T.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Trần Thị Thảo T trình bày: Chị thừa nhận lời trình bày của anh P là đúng về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và thời gian vợ chồng sống ly thân. Chị xác nhận hiện tại chị không có mang thai. Nay chị đồng ý ly hôn với anh Nguyễn Hoàng P. Khi ly hôn: Về con chung không có, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng.

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền. Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn; đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

2. Việc giải quyết vụ án: Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; đề nghị Hội đồng xét xử quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Hoàng P đối với chị Trần Thị Thảo T. Anh Nguyễn Hoàng P được ly hôn chị Trần Thị Thảo T.

Về con chung: Không có, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có tranh chấp, nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Buộc anh Nguyễn Hoàng P phải chịu án phí sự sơ thẩm về hôn nhân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh Nguyễn Hoàng P khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con đối với chị Trần Thị Thảo T. Tòa án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Anh Nguyễn Hoàng P và chị Trần Thị Thảo T vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Anh P và chị T, sau khi qua một thời gian tìm hiểu thì tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Hòa Phước, huyện Long Hồ vào tháng 12 năm 2018. Sau khi kết hôn, anh P và chị T cùng nhau chung sống bên gia đình cha mẹ chị T được hơn 01 tháng, thì anh P và chị T cùng nhau thuê nhà trọ ở huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh để thuận tiện cho việc đi làm. Anh P và chị T sống hạnh P không được bao lâu thì phát sinh mâu thuẫn. Đến tháng 3 năm 2019, anh P và chị T phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do anh P và chị T không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và mâu thuẫn về kinh tế gia đình. Anh P và chị T hiện đã sống ly thân, từ khi ly thân vợ chồng không ai có thiện chí hàn gắn đoàn tụ. Chị T về sống chung nhà cha mẹ ruột chị T tại khu phố B, phường AT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh. Nay anh P nhận thấy đời sống hôn nhân với chị T không thể kéo dài mục đích của hôn nhân không thể đạt được. Nên anh P yêu cầu được ly hôn với chị Trần Thị Thảo T.

Chị Trần Thị Thảo T thừa nhận lời trình bày của anh P là đúng về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và thời gian vợ chồng sống ly thân. Chị xác nhận hiện tại chị không có mang thai. Nay chị T đồng ý ly hôn với anh Nguyễn Hoàng P. Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn hôn nhân gia đình giữa anh P và chị T đã đến mức trầm trọng, chị T và anh P không thể hàn gắn đoàn tụ, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Hoàng P đối với chị Trần Thị Thảo T là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh Nguyễn Hoàng P và chị Trần Thị Thảo T không có con chung, nên không đặt ra giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Anh P và chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Anh Nguyễn Hoàng P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/NQ/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Hoàng P đối với chị Trần Thị Thảo T. Anh Nguyễn Hoàng P được ly hôn chị Trần Thị Thảo T.

2. Về con chung: Không có, nên không đặt ra giải quyết 3. Về tài sản chung và nợ chung: Anh P và chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Hoàng P phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014589 ngày 05-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng; anh P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Báo cho anh P và chị T biết được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:100/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về