Bản án 100/2019/HSST ngày 29/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 100/2019/HSST NGÀY 29/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Từ ngày 27 đến 29 tháng 3 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 97/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến M, tên gọi khác: không. Sinh ngày 17/11/1992. Nơi cư trú: Tổ Z, phường S, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến C và bà Phạm Thị CH, đã chết;Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến nay). Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Lê Thế A, sinh năm 1978, (vắng mặt).

Trú tại: Tổ H, phường S, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên

2. Ông Vũ Công T, sinh năm 1954, (vắng mặt).

Trú tại: Tổ V, phường S, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên

3. Anh Đặng Việt Hưng, sinh năm 1972, (vắng mặt).

Trú tại: Tổ N, phường THT, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào hồi 12 giờ 20 phút ngày 21/12/2018, tổ công tác của Công an phường Hương Sơn, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực đài tưởng niệm thuộc tổ 29 của phường thì phát hiện 01 nam thanh niên (sau xác định là Nguyễn Tiến M) điều khiển xe mô tô BKS 20B1- 463XX có biểu hiện nghi vấn li n quan đến ma tuý, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong giày b n chân trái M đang đi có 01 ống nhựa màu cam bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 ống nhựa màu hồng bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng. M khai đó là ma tuý đá và ma tuý hồng phiến của M. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định.

Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α BKS 20B1-463.XX, số khung RLHHC1217DY0917XX, số máy HC12E-50917XX; 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo, có số IMEI: 8607360341736XX bên trong có 01 sim Viettel và 01 sim Vinaphone (BL 30-31).

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở ni m phong và cân xác định khối lượng 01 viên nén màu hồng thu giữ của M là 0,103 gam, ký hiệu H1 gửi giám định; khối lượng chất tinh thể màu trắng thu giữ của M là 0,091 gam, ký hiệu H2 gửi giám định (BL 35).

Ti Kết luận giám định số 175/KL-PC09 ngày 28/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận:Viên nén màu hồng trong mẫu H1 gửi giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,103 gam; Chất tinh thể màu trắng trong mẫu H2 gửi giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,091 gam (BL 38).

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Tiến M khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 21/12/2018, khi M đang ở Bệnh viện G thuộc phường TR, thành phố TH thì có D (không rõ lai lịch, địa chỉ) gọi điện rủ M đi mua ma tuý về cùng nhau sử dụng, M đồng ý hẹn D gặp nhau ở khu vực cổng trường Trung học phổ thông A. Sau đó M một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α BKS 20B1- 463XX đi gặp D. Đến nơi, D đưa cho M 300.000 đồng để đi mua ma tuý. M cầm tiền và dùng điện thoại của M gọi cho một người đàn ông không quen biết để hỏi mua ma túy, người này đồng ý và hẹn M tới khu vực chợ V thuộc phường THT, thành phố TH. M điều khiển xe mô tô tới chỗ hẹn và mua của người đàn ông này 01 ống nhựa màu hồng bên trong có 01 viên hồng phiến và 01 ống nhựa màu cam bên trong có chứa ma tuý đá với giá 300.000đ. M cất số ma tuý trên vào trong giầy bên chân trái đang đi rồi điều khiển xe máy về tìm D để cùng nhau sử dụng ma túy. Khi M đi đến khu vực đài tưởng niệm thuộc tổ 29, phường Hương Sơn, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác công an phường Hương Sơn phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Li khai nhận tội của Nguyễn Tiến M phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ (BL 40-70).

Vt chứng của vụ án:

- 0,194 gam Methamphetamine đã sử dụng hết để giám định.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α BKS 20B1-463XX, số khung RLHHC1217DY0917XX, số máy HC12E-50917XX. Hiện đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Đặng Việt H (sinh ngày 08/12/1972, trú tại tổ N, phường THT, thành phố TH) quản lý, sử dụng.

- 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo, có số IMEI: 8607360341736XX bên trong có 01 sim Viettel và 01 sim Vinaphone. Hiện được chuyển đến bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 102/CT-VKSNDTP, ngày 21/02/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Tiến M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tiến M khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả.

Tại phi n tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến M từ 18 đến 24 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Xử lý theo quy định tại Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu sung quỹ: 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo màu vàng, có số IMEI: 8607360341736XX bên trong có 01 sim Viettel và 01 sim Vinaphone của bị cáo Mạnh.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phi n tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát vi n trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòabị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 21/12/2018, tại khu vực tổ 29, phường Hương Sơn, thành phố Thái Nguyên, Nguyễn Tiến M đang tàng trữ 0,194 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của của Công an phường Hương Sơn, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Tiến M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy... thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c, Heroine...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, mà còn là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo phải bị xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn đe phòng ngừa chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải n n được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo không có tài sản gì có giá trị, không có nghề nghiệp ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[4]. Vật chứng vụ án: 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo, có số IMEI: 8607360341736XX bên trong có 01 sim Viettel và 01 sim Vinaphonelà tài sản bị cáo dùng để liên lạc vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ. 02 phong bì niêm phong ký hiệu H1, H2 bên trong chứa ma túy đã sử dụng để giám định hết.

Đi với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α BKS 20B1-463XX, số khung RLHHC1217DY0917XX, số máy HC12E-50917XX quá trình điều tra xác định đây là tài sản của anh Đặng Việt H cho bị cáo mượn nên cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Thái Nguyên đã trả lại cho anh H nên không đặt ra việc giải quyết tiếp.

[5]. Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, theo Nguyễn Tiến M khai đã mua của một người đàn ông không quen biết. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Đi với người đàn ông tên D theo M khai là người đã rủ và đưa tiền cho M đi mua ma túy để cùng nhau sử dụng. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của D n n Cơ quan điều tra không có đủ cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ tên, 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt: Nguyễn Tiến M 18 ( Mười tám ) tháng tù giam về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/12/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuy n án để đảm bảo thi hành án.

[2].Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo, bên trong có 01 sim Viettel và 01 sim Vinaphone của bị cáo M.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 184 ngày 28/02/2019 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

[3]. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

[4]. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/HSST ngày 29/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về