Bản án 100/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 100/2019/HS-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 92/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 778/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Thanh T, sinh ngày 26 tháng 6 năm 1984 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Xóm 4, L, xã N, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; con ông Hoàng Văn S và bà Lê Thị T; có vợ là Đồng Mai A và 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân:

- Bản án số 38/2011/HSST ngày 23/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện A thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo 48 tháng thử thách về tội Cố ý gây thương tích (đã được xóa án tích).

- Bản án số 22/2014/HSST ngày 24/01/2014 của Tòa án nhân dân quận L xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt với Bản án số 38/2011/HSST ngày 23/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện A buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung 54 tháng tù của cả hai bản án (đã được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/12/2018, ngày 07/12/2018 chuyển tạm giam, có mặt.

2. Ngô Tiến Th, sinh ngày 24 tháng 10 năm 1988 tại Hải Phòng. ĐKHKTT tại số 7/92 C, phường H, quận B, thành phố Hải Phòng; hiện trú tại : Số 5/150 H, phường H, quận L, Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; con ông Ngô văn T (đã chết) và bà Vũ Thị N; chưa có vợ con; có 02 tiền án:

- Bản án số 46/2009/HSST ngày 21/02/2009 của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (chưa được xóa án tích).

- Bản án số 106/2012/HSST ngày 22/08/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 7 năm tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (chưa được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/11/2018, ngày 07/12/2018 chuyển tạm giam, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo:

1. Ông Nguyễn Xuân T - Luật sư Văn phòng Luật sư V thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng là người bào chữa cho bị cáo Hoàng Thanh T; có mặt.

2. Ông Bùi Đình C – Luật sư Văn phòng Luật sư H thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng là người bào chữa cho bị cáo Ngô Tiến Th; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 19h30’ ngày 29/11/2018, tại khu vực trước cửa nhà số 10 Hồ Sen, quận L, thành phố Hải Phòng, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận L phát hiện, bắt quả tang Ngô Tiến Th, sinh năm 1988, ĐKNKTT số 7/92 C, phường H, quận B, thành phố Hải Phòng đang mang túy đi bán, thu giữ tại túi quần của Th 02 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555 và Marbro bên trong có 01 túi nilon chứa 3 viên nén màu hồng có chữ “WY” giám định là 0,3062 gam Methamphetamine và 02 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng giám định là 9,9218 gam Methamphetamine. Ngoài ra, còn thu giữ của Th 01 xe Mô tô biển kiểm soát: 16N2-6505, 01 điện thoại Nokia, 01 điện thoại Samsung và số tiền 1.050.000 đồng.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Ngô Tiến Th tại số 5/150 H, quận L, thành phố Hải Phòng thu giữ 03 túi nilon chứa tinh thể màu trắng giám định là 28.0395 gam Methamphetamine, 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng giám định là 6,0652 gam Acetaminophen (Acetaminophen không phải ma túy); 02 túi nilon chứa 42 viên nén màu hồng có chữ “WY” giám định là 4,245 gam Methamphetamine. Ngoài ra còn thu của Th 1 cân tiểu ly, một kéo, 02 cuộn bằng dính, 01 túi nilon đựng 30 túi nilon loại 3x3cm, 01 túi nilon đựng 50 túi nilon loại 3x5cm.

Tng thu giữ của Ngô Tiến Th khi bắt quả tang và khám xét nơi ở có 42,5125 gam Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra Ngô Tiến Th khai nhận: Khoảng 14 giờ 30 ngày 29/11/2018, Th gọi điện thoại cho Hoàng Thanh T, sinh năm 1984, ở xóm 4 Lương Quán, xã Nam Sơn, huyện A, thành phố Hải Phòng hỏi mua 40 gam ma túy đá và 50 viên hồng phiến có chữ “WY” với mục đích sử dụng và bán kiếm lời. T báo giá 40 gam ma túy đá giá 16 triệu đồng, 50 viên hồng phiến giá 4 triệu đồng, tổng cộng là 20 triệu đồng. Th bảo sẽ trả trước T 4 triệu đồng và nợ lại 16 triệu đồng. T đồng ý, Th điều khiển xe Moto BKS 16N2-6505 đến nhà T, T dẫn Th lên phòng ở tầng 2. Th đưa T 4 triệu đồng, T đưa cho Th 02 túi nilon, mỗi túi đựng 20 gam ma túy đá và 01 túi nilon đựng 50 viên hồng phiến có chữ “WY”. Th cầm số ma túy trên về nhà ở số 5/150 Hàng Kênh dùng cân điện tử chia vào các túi nilon để bán và sử dụng. Quá trình phân chia ma túy, Th đã sử dụng một ít ma túy đá và làm ướt 5 viên hồng phiến “WY” nên Th đã vứt vào nhà vệ sinh. Đến khoảng 19 giờ ngày 29/11/2018, Th nhận được điện thoại của Tuấn là bán xã hội của Th hỏi mua 5 gam ma túy đá, Th báo giá 2.500.000 đồng. Tuấn hẹn Th đến quán cà phê số 12 Hồ Sen, quận L, thành phố Hải Phòng để giao nhận tiền, ma túy. Th lấy 01 túi nilon đựng 5 gam ma túy đá cho vào vỏ bao thuốc lá “555” và lấy 01 túi nilon đựng 5 gam ma túy đá, 01 túi nilon đựng 03 viên hồng phiến có chữ “WY” cho vào vỏ bao thuốc lá “Marlboro” rồi cất vào túi quần, đi xe Mô tô BKS16N2-6505 đến điểm hẹn gặp Tuấn. Khi đi đến trước cửa nhà số 10 Hồ Sen, thì bị Cơ quan Công an kiểm tra, thu giữ toàn bộ số ma túy nêu trên. Th khai trong số ma túy thu giữ của Th có một gói là của ban gái Th tên Hoa (Thành không biết lai lịch địa chỉ) đưa cho Th để trừ nợ số tiền 1.200.000 đồng Hoa nợ Th. Th cầm về nhà sử dụng Th không thấy ảo giác Th biết số ma túy này là ma túy giả nhưng Th chưa kịp vứt đi. Số tiền 1.050.000 đồng Cơ quan Công an thu giữ là tiền của Th làm thuê không liên quan đến mua bán ma túy (BL 128-161).

Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Hoàng Thanh T thu giữ của T 01 đĩa chứa tinh thể màu trắng, 03 túi nilon chứa tinh thể màu trắng giám định là 101,4561 Methamphetamine, 1,6461 gam Ketamine, 01 túi nilon chưa 122 viên nén màu hồng có chữ “WY” giám định là 12,1763 gam Methamphetamine, 01 túi chứa 12 viên nén màu xanh và 01 túi nilon chứa các viên nén màu xanh có ký hiệu “Rolex” đã bị vỡ giám định là 10,0898 gam Acetaminophen (Acetaminophen không phải ma túy).

Tng cộng thu giữ của Hoàng Thanh T có 113,6324 gam Methamphetamine, 1,6461 gam Ketamine.

Hoàng Thanh T khai : Sáng ngày 29/11/2018, T gọi điện thoại cho Th “ngọng” ở Kiến An, thành phố Hải Phòng, hỏi mua 50 gam ma túy đá, 200 viên hồng phiến có chữ “WY” và 50 viên thuốc lắc nhãn hiệu “Rolex” với mục đích sử dụng và bán kiếm lời. Th “ngọng” báo giá 50 gam ma túy đá giá 18.500.000 đồng, 200 viên hồng phiến giá 9.000.000, 50 viên thuốc lắc “Rolex” giá 10.000.000 đồng, tổng số tiền là 37.500.000 đồng. T đã chuyển tiền vào tài khoản số 030018148125 của Th “ngọng” tại ngân hàng Sacombank. Th “ngọng” hẹn T đến khu vực ngã 5 Quán Trữ, quận Kiến An để nhận ma túy. Khoảng 9 giờ ngày 29/11/2018 T đi taxi đến quán nước tại khu vực ngã 5 Quán Trữ ngồi chờ, Th “ngọng” cho một nam thanh niên gọi điện thoại liên lạc và đến đưa cho T túi giấy màu vàng nâu đựng ma túy. T cầm về nhà kiểm tra thấy đủ số ma túy T thỏa thuận mua của Th “ngọng”.

Khong 15 giờ 15 ngày 29/11/2018, Ngô Tiến Th đến nhà T mua 40 gam ma túy đá và 50 viên hồng phiến có chữ “WY” với giá 20.000.000 đồng. Th đã trả T 4.000.000 đồng và còn nợ T 16.000.000 đồng. Ngoài ra T còn bán ma túy cho một số người không biết tên, tuổi địa chỉ và không nhớ số lượng, loại ma túy.

Ti ngày 1/12/2018, T lại gọi điện thoại cho Th “ngọng” hỏi mua 100 gam ma túy đá, Th “ngọng” báo giá là 37.000.000 đồng. Tối 01/12/2018 và ngày 02/12/2019 T đã chuyển 34.000.000 đồng vào tài khoản của Th “ngọng” tại ngân hàng Sacombank. Sau đó T gọi điện thoại báo cho Th “ngọng” biết việc T đã chuyển 34.000.000 đồng vào tài khoản của Th “ngọng”, T xin nợ Th “ngọng” 3.000.000 đồng. Th ngọng đồng ý và hẹn T ra khu vực đường bờ sông gần chân cầu An Đồng 2 sẽ có người giao ma túy đá cho T. Đến điểm hẹn T gọi điện thoại cho Th “ngọng”, Th “ngọng” bảo T lấy ma túy dưới một viên gạch màu đỏ ở phía đường đi sát bờ sông, T lật viên gạch theo chỉ dẫn của Th “ngọng” lấy túi giấy đựng ma túy đá về phòng 406 khách sạn Nam Phong. T dồn số ma túy đá còn lại của T trước đó vào túi nilon đựng ma túy đá T vừa mang về. Sau đó T mang ma túy đi về nhà ở của T thì bị Công an bắt thu giữ toàn bộ số ma túy.

Số Ketamine Công an thu giữ của Hoàng Thanh T, T khai mua của một nam thanh niên không tên lai lịch địa chỉ tại khu vực quán bar gần khu vực chợ Ga, Hải Phòng với giá 5.000.000 đồng vào đêm 30/11/2018 mục đích vừa để sử dụng vừa bán (BL 192-224).

Lời khai nhận tội của Ngô Tiến Th, Hoàng Thanh T phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng Cơ quan Công an thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác nhau thu thập được trong quá trình điều tra (BL 57-60; 64-67; 78, 92; 96, 100, 102). Đủ cơ sở xác định Hoàng Thanh T đã bán ma túy cho Ngô Tiến Th và Ngô Tiến Th đang mang ma túy đi bán cho khách mua.

Đi với lời khai của Hoàng Thanh T về việc: Sau khi mua ma túy của Th ngọng vào ngày 29/11/2018, T còn bán ma túy cho một số người nhưng T khai T không biết tên, địa chỉ, không nhớ số lượng, loại ma túy đã bán cho họ, bản thân T nghiện, sử dụng ma túy, do đó không có cơ sở làm rõ và kết luận về loại ma túy và khối lượng T đã bán cho những người này.

Về vật chứng của vụ án:

Đi với chiếc xe Moto BKS: 16N2 – 6505 Cơ quan Công an thu giữ khi bắt Ngô Tiến Th: qua xác minh chiếc xe mang tên Trần Văn Vương, sinh năm 1967 ở X5, xã Định Hóa, huyện Kiem Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tháng 8/2018 con gái ông Vương là Trần Thị Hải Yến, sinh năm 1997, sinh viên Học viện Nông nghiệp Hà Nội sử dụng làm phương tiện đi lại bị mất tại khu nhà trọ số 14 ngõ 139 Trâu Quỳ, thị trấn Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Khi mất xe Yến đã trình báo Công an thị trấn Trâu Quỳ. Ngô Tiến Th khai chiếc xe trên Th mua của một người bạn tên Tuấn ở Quán Toan, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng với giá 2.500.000 đồng vào tháng 9/2018. Khi mua xe Tuấn nói xe có đăng ký, có giấy tờ mua bán hợp pháp giữa Tuấn và chủ xe. Th không biết là xe do phạm tội mà có, Tuấn có viết giấy bán xe cho Th. Khoảng tháng 11/2018 Th đã làm mất đăng ký và giấy mua bán xe nhưng Th không trình báo Cơ quan Công an. Do Th khai không rõ lai lịch của Tuấn nên Cơ quan điều tra chưa xác minh lấy được lời khai của Tuấn, vì vậy Cơ quan điều tra tách chiếc xe Mô tô BKS 16N2 – 6505 chuyển đến Cơ quan Công an huyện Gia lâm, thành phố Hà Nội để xem xét khởi tố, điều tra vụ án trộm cắp tài sản theo thẩm quyền.

Nhng vật chứng là ma túy, tiền, điện thoại di động và những tài sản khác thu giữ của Ngô Tiến Th, Hoàng Thanh T chuyển Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng chờ xử lý.

Tại Bản Cáo trạng số 92/CT-VKS-P1 ngày 13/8/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Hoàng Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo Ngô Tiến Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng trình bày: Giữ nguyên quan điểm truy tố tại Bản Cáo trạng số 92/CT-VKS-P1 ngày 13/8/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng. Tại phiên tòa hôm nay, lời khai của bị cáo Th và bị cáo T phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Về việc bị cáo Th khai trong tổng lượng ma túy thu giữ tại nhà bị cáo Th có một gói ma túy do bạn gái bị cáo gửi. Nhận thấy tại thời điểm bạn gái bị cáo Th gửi, bị cáo Th cũng hoàn toàn biết được đây là ma túy nhưng vẫn đồng ý cho bạn gái gửi. Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, cần xử lý nghiêm khắc mới có tác dụng phòng ngừa chung. Số lượng ma túy bị cáo T mua bán nhiều hơn số lượng ma túy bị cáo Th mua bán nên cần áp dụng mức hình phạt cho bị cáo T nặng hơn so với bị cáo Th mới tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Bị cáo Th có 02 tiền án chưa được xóa án tích nên bị áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo T có 02 tiền án đều đã được xóa án tích nên không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng cần đánh giá nhân thân xấu. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Th và T đều Th khẩn khai báo. Ngoài ra, bị cáo T trước đây đã từng tham gia quân đội, cả 02 bị cáo đều có người nhà tham gia kháng C được tặng thưởng Huân chương nên bị cáo Th, T cùng được áp dụng tình tiết giạm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt 20 năm tù đối với bị cáo T; 17-18 năm tù đối với bị cáo Th và áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Th từ 10 đến 20 triệu đồng, phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng đối với bị cáo T. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu, sung quỹ số tiền 50.000 đồng (bị cáo T dùng để cuộn ma túy) và 02 điện thoại Nokia hai bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định trong 04 phong bì dán kín mép trên có niêm phong, 01 cân điện tử, 03 túi nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá màu xanh 555, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Marlboro, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế, 02 ống hút nhựa, 01 đĩa sứ, 02 cuộn băng dính màu đỏ in chữ Cocacola, 50 túi nilon kích thước 3cmx5cm, 30 túi nilon kích thước 3cmx3cm, 01 kéo màu đen, 01 cân tiểu ly. Trả lại cho bị cáo T 01 điện thoại Iphone, trả lại cho bị cáo Th 01 điện thoại Samsung và số tiền 1.050.000 đồng.

- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Thanh T là ông Nguyễn Xuân T trình bày: Không có quan điểm phản biện về phần tội danh và điều khoản áp dụng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đã truy tố đối với bị cáo T. Tuy nhiên về lượng ma túy bị cáo T mua bán, thì khi thu giữ số lượng ma túy tại nhà bị cáo Th có 01 gói ma túy không phải là của bị cáo T bán cho bị cáo Th mà là của bạn gái Th. Tại các bản tự khai và trong toàn bộ quá trình điều tra cũng đều thể hiện rõ việc này. Tuy nhiên lại xác định cả gói ma túy của bạn gái Th để tính vào tổng lượng ma túy bị cáo T bán cho bị cáo Th. Vì vậy đề nghị HĐXX xem xét lại về số lượng ma túy bị cáo T đã mua bán để áp dụng hình phạt tương xứng. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng ý với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng. Về phần hình phạt bổ sung, nhận thấy số tiền phạt là quá cao. Hiện tại bố bị cáo T đang ốm nằm viện, bị cáo nuôi con nhỏ, cuộc sống gia đình khó khăn, đề nghị HĐXX xem xét lại hình phạt để bị cáo sớm có thời gian quay trở về đoàn tụ, chăm lo cho gia đình.

- Người bào chữa cho bị cáo Ngô Tiến Th là ông Bùi Đình C trình bày: Đồng ý với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng về phần tội danh. Tuy nhiên Luật sư C không đồng ý với quan điểm của Cơ quan điều tra cho rằng bị cáo Th không khai báo rõ địa chỉ của các đối tượng Hoa, Tuấn, Hiếu nên không có cơ sở điều tra. Về việc này thì bị cáo không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội mà thuộc về trách nhiệm của Cơ quan điều tra. Đánh giá về hành vi phạm tội của Th không có tổ chức, thủ đoạn; Th chỉ là một nhánh nhỏ trong đường dây buôn ma túy. Th nghiện ma túy nên Th mua để sử dụng cho bản thân và bán sỉ, lẻ để phục vụ sinh hoạt. Nếu Th là đối tượng xảo quyệt thì không thể giao dịch mua bán tại khu vực hồ Sen đông đúc. Về số lượng ma túy, nếu trừ đi lượng ma túy của bạn gái Th gửi thì số lượng thực tế Th mua bán chỉ bằng 1/3 số lượng mà Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố đối với Th. Trong toàn bộ quá trình điều tra Th đã khai báo Th khẩn, hối lỗi. Đối trừ các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự thì Th vẫn còn tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bản thân Th sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn, bố mất sớm, mẹ già yếu nên dễ bị bạn bè lôi kéo. Qua các biên bản khám xét nơi ở nhận thấy nơi ở của Th không có nhiều tài sản; Th sau khi ra tù không có việc làm nên dễ tái phạm. Số lượng người mua ma túy lớn kích thích Th phạm tội, số lượng người cầu thì phải có người cung cấp. Đây cũng có thể coi là các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến việc phạm tội của Th.

- Bị cáo T và bị cáo Th thống nhất trình bày và nói lời sau cùng: Các bị cáo đều thống nhất với phần trình bày của người bào chữa cho các bị cáo. Hoàn cảnh các bị cáo hiện tại rất khó khăn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo sớm có cơ hội quay trở về xã hội đẻ giúp đỡ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về nội dung:

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Thanh T, Ngô Tiến Th khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ, Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với Kết luận giám định và những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ xác định: bị cáo Hoàng Th T và bị cáo Ngô Tiến Th cùng phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Hoàng Thanh T đã mua tổng số 156,1449 gam Methamphetamine; 1,6461 gam Ketamine và đã bán 42,5125 gam Methamphetamine cho Ngô Tiến Th. Bị cáo Ngô Tiến Th có hành vi mua 42,5125 gam Methamphetamine với mục đích bán kiếm lời. Khi Th đang đi xe mô tô mang 10,228 gam Methamphetamine đi bán cho khách thì bị Cơ quan Công an bắt quả tàng cùng vật chứng như trên. Do đó bị cáo Th bị xét xử theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo T bị xét xử theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự theo như Bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T và Th cùng được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Th khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo T có thời gian tham gia quân đội, có bổ đẻ được Chủ tịch nước tặng Huân chương chiến công, Huân chương quân kỳ quyết thắng, được Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương C sĩ vẻ vang và có ông nội được tặng huân chương kháng chiến; bị cáo Th có ông ngoại tham giam kháng chiến được Nhà nước tặng thưởng Huân chương, bác ruột bị cáo Th là liệt sỹ được Nhà nước tặng Bằng Tổ quốc ghi công nên bị cáo Th, T cùng được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

[5] Về nhân thân: Nhân thân của bị cáo T có 02 tiền án mặc dù đều đã được xóa án tích, qua đó cho thấy bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo không lấy đó làm bài học, kinh nghiệm mà lại tiếp tục phạm tội.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Th có 02 tiền án chưa được xóa nên phải chịu tình tiết tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

[7] Đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và mức hình phạt: Ma túy vẫn đang là hiểm họa của toàn cầu, nó không những hủy hoại sức khỏe con người mà còn là nguyên nhân chính làm phát sinh các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác, gây mất trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy, gieo rắc cái chết trắng cho cộng đồng. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo T và Th với mức hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung. Ngoài ra cần căn cứ điểm c mục 3.1 Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, xử phạt các bị cáo hình phạt tù để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài mới tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo. Ngoài hình phạt chính, cần áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền các bị cáo theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

- Tịch thu tiêu hủy đối với 04 phong bì dán kín các mép, 02 cuộn băng dính màu đỏ in chữ Cocacola, 50 túi nilon kích thước 3cmx5cm, 30 túi nilon kích thước 3cmx3cm, 01 kéo màu đen, 01 cân tiểu ly, 01 bộ dụng cụ sử dung ma túy tự chế gồm 01 chai nhựa nhãn mác Revive, 02 ống hút nhựa, 01 đĩa sứ, 01 cân điện tử, 03 túi nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá màu xanh 555, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu marlboro.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với 02 điện thoại Nokia và 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng được cuộn tròn dạng ống hút.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Thanh T 01 điện thoại Iphone, trả lại cho bị cáo Ngô Tiến Th 01 điện thoại Samsung và số tiền 1.050.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 0001427 ngày 09/8/2019 cả Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng). Tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Thể hiện cụ thể tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/8/2019 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng).

- Về án phí:

[8] Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm h khoản 4, 5 Điều 251; điểm c mục 3.1 Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điều 35; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Về hình phạt chính: Xử phạt Hoàng Thanh T 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 03/12/2018.

Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ điểm b khoản 3, 5 Điều 251; điểm c mục 3.1 Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điều 35, Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, Về hình phạt chính: Xử phạt Ngô Tiến Th 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 30/11/2018.

Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng sung quỹ Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

- Tịch thu tiêu hủy đối với 04 phong bì dán kín các mép, 02 cuộn băng dính màu đỏ in chữ Cocacola, 50 túi nilon kích thước 3cmx5cm, 30 túi nilon kích thước 3cmx3cm, 01 kéo màu đen, 01 cân tiểu ly, 01 bộ dụng cụ sử dung ma túy tự chế gồm 01 chai nhựa nhãn mác Revive, 02 ống hút nhựa, 01 đĩa sứ, 01 cân điện tử, 03 túi nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá màu xanh 555, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu marlboro.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với 02 điện thoại Nokia và 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng được cuộn tròn dạng ống hút.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Thanh T 01 điện thoại Iphone, trả lại cho bị cáo Ngô Tiến Th 01 điện thoại Samsung và số tiền 1.050.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 0001427 ngày 09/8/2019 cả Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng). Tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Thể hiện cụ thể tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/8/2019 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng)

3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Hoàng Thanh T và bị cáo Ngô Tiến Th mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về