TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 100/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 128/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp “ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1987; cư trú tại: Ấp CN, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1980; cư trú tại: Ấp CN, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Chị Nguyễn Thị T trình bày:
Về hôn nhân: Chị T và anh Đ chung sống năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HT, huyện NC, tỉnh Cà Mau, hôn nhân tự nguyện. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do anh Đ không quan tâm, lo lắng cho gia đình, thường ghen tuông và còn xúc phạm chị. Mâu thuẫn đã được thân tộc hai bên hòa giải, hàn gắn nhưng không thành. Trước khi chị làm đơn khởi kiện ly hôn, chị có yêu cầu anh Đ về nhà để hòa giải nhưng anh Đ nói bận công việc không thể về được. Chị T xác định không còn tình cảm với anh Đ và yêu cầu Tòa án cho chị ly hôn với anh Đ.
Về con chung: Có hai con chung là cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 09/10/2006 và cháu Nguyễn Hoài P, sinh ngày 08/04/2009. Hiện hai cháu đang sống cùng chị T. Tại đơn khởi kiện, chị T yêu cầu được nuôi con nhưng trên cơ sở nguyện vọng của hai con và trường hợp Tòa án giao hai con cho chị nuôi dưỡng, chị yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con 695.000đ/tháng/cháu, cấp dưỡng hàng tháng, thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Tại đơn xin từ chối tham gia tố tụng, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết giao hai cháu cho chị nuôi dưỡng, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ: Chị T xác định không có.
Anh Nguyễn Minh Đ trình bày:
Về hôn nhân: Anh chị chung sống với nhau vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HT, huyện NC, tỉnh Cà Mau, hôn nhân tự nguyện. Anh xác định nguyên nhân mâu thuẫn theo chị T trình bày là không đúng, anh thừa nhận có ghen tuông do chị có đi chơi với bạn bè một tháng khoảng 2-3 lần và chị nói có bầu khoảng 4-5 tuần nhưng thực tế anh và chị không còn quan hệ với nhau khoảng 4-5 tháng. Anh xác định vẫn còn tình cảm với chị T nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu khởi kiện của chị T.
Về con chung: Anh chị có hai con chung theo như lời trình bày của chị T. Anh yêu cầu Tòa án giải quyết trên cơ sở nguyện vọng của hai con. Trường hợp Tòa án giao hai con cho chị T nuôi dưỡng, anh không đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của chị T.
Về tài sản chung và nợ: Anh chị không nợ ai và không ai nợ lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị T có đơn xin từ chối tham gia tố tụng. Anh Nguyễn Minh Đ đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị T và anh Đ là phù hợp.
[2] Về hôn nhân: Chị T và anh Đ chung sống với nhau vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HT, hôn nhân tự nguyện theo đúng quy định nên được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Xét nguyên nhân mâu thuẫn: Mặc dù, anh chị không thống nhất với nhau về nguyên nhân mâu thuẫn nhưng theo lời trình bày của hai bên đã cho thấy cuộc sống của vợ chồng không còn hòa hợp, không còn có sự tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau, mỗi người đã có cuộc sống riêng. Mặt khác, anh Đ không đồng ý ly hôn nhưng khi được Tòa án thông báo hòa giải vào ngày 07/5/2019 và triệu tập anh tham gia phiên tòa xét xử vào các ngày 20/5/2019 và ngày 28/5/2019 anh Đ vẫn vắng mặt mà không có lý do, còn chị T xác định không còn tình cảm với anh Đ và có đơn xin được xét xử vắng mặt, điều này cho thấy các đương sự không có nguyện vọng để hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Dó đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình cho chị T được ly hôn anh Đ.
[3] Về con chung: Chị T và anh Đ đều thống nhất nếu hai con có nguyện vọng theo ai thì người đó nuôi. Xét thấy, từ khi anh chị ly thân đến nay, cháu Đ và cháu P sống chung với chị T, hai cháu vẫn phát triển đầy đủ về mặt thể chất lẫn tinh thần, cuộc sống của hai cháu đã ổn định và theo đơn ghi nguyện vọng thể hiện cháu Đ và cháu P có nguyện vọng sống chung với chị T. Theo khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu Đ và cháu P cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp.
[4] Về tài sản chung và nợ: Chị T và anh Đ xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp.
[45] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1.Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Nguyễn Thị T, cho chị Nguyễn Thị T ly hôn anh Nguyễn Minh Đ.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 09/10/2006 và cháu Nguyễn Hoài P, sinh ngày 08/04/2009 cho chị Nguyễn Thị T tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Minh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0009163 ngày 15 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị T đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Minh Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 100/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 100/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về