Bản án 09/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã K, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 97/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:83/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2021/QĐST-HS ngày 08/01/2021 đối với bị cáo:

Phạm Thị T, sinh năm 1960. Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Khu dân cư V, phường T1, thị xã K, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn K và bà Hoàng Thị M; Có chồng Nguyễn Văn C và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1982, con nhỏ nhất sinh năm 1989. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Anh Triệu Văn H, sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn Đ, xã B, thị xã K, tỉnh Hải Dương

2. Ông Đặng Văn T2, sinh năm 1968 Địa chỉ: T2, phường T3, thị xã K, tỉnh Hải Dương

3. Anh Vũ Văn V1, sinh năm 1976 Địa chỉ: Thôn N, xã L1, thị xã K, tỉnh Hải Dương

4. Anh Hà Văn B, sinh năm 1987 Địa chỉ: M1, C1, Nghệ An đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng giữa tháng 7/2020, Phạm Thị T đang ở nhà tại Khu dân cư V, phường T1, thị xã K, tỉnh Hải Dương thì có người phụ nữ không quen biết họ tên tuổi ở M2, Đ2, Quảng Ninh đến bảo T bán số lô, số đề và nộp lại bảng số lô, số đề cho họ thì sẽ được hưởng tiền hoa hồng, cụ thể cứ 1.000.000 đồng tiền đề thì T được hưởng 100.000 đồng, 1.000.000 đồng tiền lô thì T được hưởng 50.000 đồng, T đồng ý. T và người phụ nữ quy định hàng ngày T ghi các số lô, số đề cho các đối tượng đánh bạc sau đó tập hợp vào 1 tờ giấy gọi là bảng đề, đến khoảng 18 giờ hàng ngày người phụ nữ đến thu bảng đề của T. Các đối tượng đánh số lô, số đề căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày từ 18 giờ 15 phút đến 18 giờ 30 phút. Số đề hai số, số đề ba số là người mua trước giờ xổ số kiến thiết miền bắc mở thưởng chọn mua hai hoặc ba số tự nhiên tùy ý với một lượng tiền ấn định, khi có kết quả xổ số nếu số đề hai hoặc ba số trùng với số cuối của giải đặc biệt thì người mua số đề thắng, với số đề hai số được nhân gấp 70 lần, với số đề ba số được nhân gấp 400 lần số tiền đã bỏ ra mua, ngược lại nếu không trúng thì thua và người mua mất toàn bộ số tiền đã mua. Số lô là số mà người mua trước giờ xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng chọn mua hai số tự nhiên tùy ý với lượng tiền ấn định, một điểm lô người mua phải bỏ ra số tiền là 20.000 đồng. Khi có kết quả xổ số thì so hai số cuối của 27 giải thưởng nếu trùng thì thắng, một điểm lô được 70.000 đồng, nếu một số lô xuất hiện nhiều lần ở hai số cuối của 27 giải thưởng thì chỉ được tính 2 lần nhân với 70.000 đồng, ngược lại nếu không trúng thì người mua mất toàn bộ số tiền đã mua. Ngày hôm sau căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc của ngày hôm trước, người phụ nữ đến thanh toán tiền với T, sau đó T thanh toán thắng thua với những người đã mua số lô, số đề của T.

Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 26/7/2020, Triệu Văn H, sinh năm 1990, trú tại B, thị xã K, Hải Dương đến mua của T các số lô 12, 94, 46 và số đề 46 với tổng số tiền là 1.500.000 đồng, T đã nhận đủ tiền của H và ghi các số lô, số đề H đặt cược vào 01 mảnh giấy có kích thước 6x7 cm và 01 mảnh giấy có kích thước 6x6,5cm đưa cho H, sau đó ghi các số lô, số đề H đã đặt cược vào tờ giấy có kích thước (24,5x33)cm. Sau có, Đặng Văn T2, sinh năm 1968, trú tại T2, phường T3, thị xã K đến mua của T các số lô 95, 87 và số đề 87, 23 với tổng số tiền là 1.110.000 đồng, T đã nhận đủ tiền của T2 và ghi các số lô, số đề T2 đặt cược vào mảnh giấy có kích thước (6x7) cm đưa cho T2 rồi ghi các số lô số đề T2 đã đặt cược vào tờ giấy có kích thước (24,5x33)cm. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, Vũ Văn V1 - sinh năm 1976, trú tại N - L1 - thị xã K đến mua của T số lô 77, các số đề 86, 68, 08, 80, 60, 06 với tổng số tiền 1.500.000 đồng, T đã nhận đủ tiền của V1 và ghi các số lô, số đề V1 đặt cược vào mảnh giấy có kích thước (7 x10) cm đưa cho V1, sau đó ghi các số lô số đề V1 đã đặt cược vào tờ giấy có kích thước (24,5x33)cm. Cùng lúc có Hà Văn B - sinh năm 1987, trú tại Mậu Đức - Con Cuông - Nghệ An đến mua của T các số lô 43, 08 và các số đề 89, 30 với tổng số tiền là 1.600.000 đồng, T đã nhận đủ tiền của B và ghi các số lô, số đề B đặt cược vào mảnh giấy có kích thước (7 x10) cm đưa cho B, sau đó ghi các số lô số đề B đã đặt cược vào tờ giấy có kích thước (24,5x33)cm. Đến 17 giờ 40 phút cùng ngày thì Tổ công tác Công an thị xã K kết hợp với Công an phường T1 kiểm tra, phát hiện, thu trên tay Vũ Văn V1 01 mảnh giấy có kích thước (7x10) cm, một mặt ghi các số lô, số đề; thu trên tay Hà Văn B 01 mảnh giấy có kích thước (7x10) cm, một mặt ghi các số lô, số đề; thu giữ trên bàn cạnh vị trí Phạm Thị T ngồi số tiền 3.100.000 đồng, 02 bút bi nhãn hiệu TR3 màu xanh và đen, 01 tờ giấy dòng kẻ hình chữ nhật nhãn hiệu Hongha có kích thước (24,5x33)cm cả hai mặt đều ghi các số tự nhiên. Quá trình điều tra còn làm rõ từ khoảng 10 giờ ngày 26/7/2020 đến khoảng 17 giờ cùng ngày, T đã bán số lô, số đề cho một số người không quen biết họ tên, tuổi, địa chỉ được số tiền 2.477.000 đồng. T tự nguyện giao nộp số tiền 2.610.000 đồng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra là tiền T bán số lô, số đề cho H, T2 và những người không quen biết, số tiền còn lại T đã chi tiêu hết. Do vậy, tổng số tiền T đã bán số lô, số đề trong ngày 26/7/2020 là 8.187.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ 01 mảnh giấy dòng kẻ có kích thước (6x7)cm một mặt ghi các số lô, số đề, một mặt có chữ kí của Đặng Văn T2 (do T2 tự nguyện giao nộp); 01 mảnh giấy có kích thước (6x7) cm, 01 mảnh giấy có kích thước (6x6,5) cm một mặt có ghi các số lô, số đề, một mặt có chữ kí của Triệu Văn H (do H tự nguyện giao nộp).

Ngày 08/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K đã gửi toàn bộ số tiền 5.710.000 đồng tại Kho bạc nhà nước thị xã K chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra, bị cáo Phạm Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người tham gia đánh bạc, lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K thu thập.

Tại cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 27/11/2020, VKSND thị xã K truy tố bị cáo Phạm Thị T về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Thị T vẫn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Vị đại diện VKS thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị T phạm tội Đánh bạc.

* Về hình phạt: - Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1,2,5 Điều 65 của BLHS:

+ Xử phạt bị cáo Phạm Thị T từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Thị T cho UBND phường T1 quản lý và giáo dục trong thời gian thử thách.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 của BLHS, khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy đối với 02 bút bi; Tịch thu, sung quỹ nhà nước số tiền 8.187.000đ (trong đó đã thu 5.710.000 đồng, tự nguyện nộp 2.477.000 đồng) của Phạm Thị T sung quỹ nhà nước.

* Về án phí: Áp dụng điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, hiện bị cáo thuộc đối tượng người cao tuổi, nên miễn hình phạt bổ sung, án phí cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cở sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã K, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện về thẩm quyền, trình tự, T2 tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Thị T đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, người làm chứng, vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu liên quan khác có trong hồ sơ. Nên có đủ cơ sở để kết luận: Lợi dụng vào kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày, Phạm Thị T đã có hành vi bán số lô, số đề cho người chơi sau đó chuyển lại bảng số lô, số đề đã bán được cho một người phụ nữ không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ ở M2, Đ2, Quảng Ninh để hưởng tiền hoa hồng. Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 26/7/2020, tại nhà ở của Phạm Thị T ở V, phường T1, thị xã K, tỉnh Hải Dương, T có hành vi bán cho Triệu Văn H 03 số lô, 01 số đề với tổng số tiền là 1.500.000 đồng, bán cho Đặng Văn T2 02 số lô, 02 số đề với tổng số tiền 1.110.000 đồng; bán cho Vũ Văn V1 01 số lô, 06 số đề với tổng số tiền 1.500.000 đồng và bán cho Hà Văn B 02 số lô, 02 số đề với tổng số tiền 1.600.000 đồng. Hồi 17 giờ 40 phút cùng ngày, khi T vừa bán xong số lô, số đề cho V1 và B thì bị Tổ công tác thuộc Công an thị xã K phối hợp với Công an phường T1 kịp thời phát hiện, thu giữ vật chứng như nêu trên. Trước đó, trong ngày 26/7/2020, T đã bán số lô, số đề cho một số người không biết họ tên đệm, tuổi, địa chỉ được số tiền là 2.477.000 đồng. Tổng số tiền T bán số lô, số đề trong ngày 26/7/2020 là 8.187.000 đồng. Do vậy, VKSND thị xã K truy tố bị cáo Phạm Thị T về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Xét hành vi phạm tội đó của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng mà còn gây ảnh hưởng tới cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn cờ bạc trong xã hội nói chung và trên địa bàn phường T1 nói riêng. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi và hậu quả của bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, quá trình thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Ngày 15/8/2003, tại bản án số 19/2003/HSST của TAND huyện K (nay là TAND thị xã K), xử phạt Phạm Thị T 12 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Tổ chức đánh bạc (tổng số tiền đánh bạc trị giá 2.841.100đ) với vai trò đồng phạm thứ yếu trong vụ án, thu lời 79.700đ. Ngày 15/8/2005, chấp hành xong hình phạt của bán án. Bị cáo không lấy đây là bài học để tự tu dưỡng, rèn luyện, mà ngày 26/7/2020, vì động cơ tư lợi bị cáo lại thực hiện do lỗi cố ý về hành vi đánh bạc như đã nêu. Song cũng nên xem xét áp dụng nguyên tắc có lợi cho người phạm tội theo tinh thần của Nghị Quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015, nên không đặt ra đối với nhân thân của bị cáo. Hiện bị cáo thuộc đối tượng người cao tuổi, sau khi phạm tội đã tự nguyện khắc phục hậu quả, tiếp tục nộp nốt số tiền đánh bạc chưa thu giữ được, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, trong thời gian lao động cư trú tại địa phương đã tích cực tham gia các phong trào do địa phương phát động (ủng hộ quỹ phòng chống Covid 19). Nên cần áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và “người cao tuổi”, “có tinh thần ủng hộ phong trào do địa phương phát động” được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là phù hợp. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không. Do vậy, xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên xem xét chiếu cố, không buộc bị cáo phải cách ly xã hội mà giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi cư trú quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách giúp bị cáo cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Trong vụ án, đối với người phụ nữ đặt vấn đề với T làm thư ký ghi số lô, số đề và thu bảng đề của T, chưa xác định được là ai, ở đâu, do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K tiếp tục xác minh khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Triệu Văn H, Đặng Văn T2, Vũ Văn V1, Hà Văn B có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua số lô, số đề của T, song hành vi không cấu thành tội Đánh bạc nên ngày 15/9/2020 Công an thị xã K đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng trên về hành vi Đánh bạc. Đối với Nguyễn Văn Vũ, sinh năm 1972, trú tại V, T1, K, Hải Dương theo T khai đã mua số lô, số đề của T vào ngày 26/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K đã triệu tập Vũ để làm việc nhưng Vũ thường xuyên vắng mặt tại địa phương, hiện không xác định được Vũ đang làm gì ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với đối tượng có tên Đức ở Đ, B, K; Định, Quyền và 1 nam thanh niên con nhà bà Nụ ở T1, K theo T khai đã mua số lô, số đề của T vào ngày 26/7/2020 đến nay chưa xác định được là ai, ở đâu, do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K tiếp tục điều tra xác minh khi nào làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[3] Về hình phạt bổ sung: Tại điều luật có quy định song xét về điều kiện, nhân thân, nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 3 Điều 321 BLHS đối với bị cáo.

[4]Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, công an đã thu giữ 02 bút bi nhãn hiệu TR3 màu xanh và đen, 01 tờ giấy dòng kẻ hình chữ nhật nhãn hiệu Hongha có kích thước (24,5x33)cm cả hai mặt đều ghi các số tự nhiên và các mảnh giấy dòng kẻ ghi các số lô, số đề, một mặt có chữ kí của Đặng Văn T2,Triệu Văn H (do T2, H tự nguyện giao nộp). Số tiền đánh bạc 8.187.000 đồng (do thu giữ tại gia đình và bị cáo tự nguyện giao nộp).

Xét 02 chiếc bút bi nhãn hiệu TR3 màu xanh và đen bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với những tài liệu ghi đề cần lưu giữ trong hồ sơ làm căn cứ. Đối với số tiền 8.187.000 đồng thu giữ của bị cáo là nguồn tiền thu lời bất chính mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước là phù hợp.

[5] Về án phí: Căn cứ điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu nộp án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm b,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1,2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; Căn cứ điểm a,b khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1 và điểm a,b,c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu nộp án phí và lệ phí Tòa án.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị T phạm tội “Đánh bạc”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Thị T 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng thời hạn được tính kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Phạm Thị T cho UBND phường T1 giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về biện pháp tư pháp: Tuyên tịch thu cho tiêu hủy 02 chiếc bút bi nhãn hiệu TR3 màu xanh và đen; Tịch thu số tiền 8.187.000 đồng (được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/12/2020 và Biên lai thu tiền ngày 07/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã K) sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Phạm Thị T.

Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo. Tòa án báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về