Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 807/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 282/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 213/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị S, sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn V, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Ngô Văn N, sinh năm 1993; nơi cư tú: Thôn V, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Đỗ Thị S là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị kết hôn với anh Ngô Văn N trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục từ đầu năm 2016, song đến ngày 24 tháng 9 năm 2018, chị và anh N mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng. Sau lễ cưới, chị về chung sống cùng với anh N tại thôn V, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống chung vợ chồng chỉ hòa thuận được một thời gian ngắn thì đã bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt, anh N mải chơi, không lo làm ăn và có hành vi vi phạm pháp luật phải đi chấp hành án phạt tù về tội trộm cắp tài sản. Chị S đã về nhà bố mẹ đẻ ở từ năm 2018 đến nay, vợ chồng sống ly thân nhau. Đến tháng 7 năm 2020, anh N chấp hành án phạt tù xong, gia đình hai bên tham gia động viên, hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng đến nay vẫn không được cải thiện. Nay, nhận thấy vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Ngô Văn N. Chị S và anh N có một con chung tên Ngô Gia B, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016. Kể từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, chị S là người trực tiếp nuôi con. Khi ly hôn, chị S đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị và anh N tự thỏa thuận về cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, chị và anh N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản.

Tại bản tự khai ngày 30 tháng 11 năm 2020, bị đơn là anh Ngô Văn N khai, thống nhất với lời trình bày của chị Đỗ Thị S về thời gian và điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn. Nay chị S xin ly hôn, quan điểm của anh N là đồng ý ly hôn. Khi ly hôn, anh N đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Ngô Gia B, tự thỏa thuận với chị S về việc cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án chia tài sản.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện tương đối đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Đỗ Thị S được ly hôn anh Ngô Văn N; đề nghị giao con Ngô Gia B, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016 cho chị Đỗ Thị S trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng

Bị đơn là anh Ngô Văn N đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Đỗ Thị S ly hôn với anh Ngô Văn N Chị S và anh N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, kết hôn giữa chị S và anh N là hợp pháp. Chị S và anh N đều thống nhất xác định nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh N mải chơi, không chí thú làm ăn và có hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến việc anh N phải đi chấp hành án phạt tù, tình cảm vợ chồng vì thế mà ngày càng thờ ơ lạnh nhạt, không còn quan tâm, chăm sóc đến nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Gia đình đã tham gia hòa giải mâu thuẫn cho chị S và anh N nhưng không có kết quả. Chị S xin ly hôn, anh N có quan điểm đồng ý ly hôn. Từ những chứng cứ nêu trên cho thấy giữa chị S và anh N đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về việc thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau và nghĩa vụ sống chung cùng nhau. Mâu thuẫn đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị S xin ly hôn anh N.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị S và anh N có 01 con chung tên Ngô Gia B, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016. Khi ly hôn, chị S đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, chị S là người trực tiếp nuôi con; việc nuôi dưỡng đã ổn định, con chung được chăm sóc, phát triển bình thường về tâm sinh lý. Chị S là công nhân, đảm bảo thu nhập ổn định để nuôi con. Anh N không cung cấp được các chứng cứ chứng minh điều kiện nuôi con và vắng mặt tại phiên hòa giải lần thứ hai. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện, hoàn cảnh của chị S, của anh N, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Đỗ Thị S trực tiếp nuôi con tên Ngô Gia B, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016 là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị S và anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. Xét đề nghị của đương sự là tự nguyện, quyền lợi của con chung vẫn được đảm bảo nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung, chị Đỗ Thị S và anh Ngô Văn N thống nhất khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Đỗ Thị S phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, - Cho chị Đỗ Thị S được ly hôn với anh Ngô Văn N.

- Giao cho chị Đỗ Thị S trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Ngô Gia B, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Chị Đỗ Thị S phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0002477 ngày 05/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Đỗ Thị S đã nộp đủ án phí.

- Chị Đỗ Thị S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Ngô Văn N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về