Bản án 09/2020/HS-ST ngày 11/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 11/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 6 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày 05/3/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 05/5/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2020/HSST- QĐ ngày 20/5/2020 đối với bị cáo:

+ Nguyễn Hồng P, Sinh ngày 21/2/2002, tại Gia Lai;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xã H, huyện C, tỉnh G.

Nghề nghiệp: Làm nông;Trình độ học vấn: 08/12;

Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Công Giáo;

Con ông: Nguyễn Văn P1, sinh năm 1980 và bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1978;

Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn nhất. Bị cáo chưa có vợ.

Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2019 đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

+ Người đại diện theo pháp luật của bị cáo: Ông Nguyễn Văn P1- sinh năm 1980 là (bố đẻ) của bị cáo; đồng thời là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (có mặt).

Trú tại: xã H, huyện C, tỉnh G

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

-Anh: Nguyễn Văn X - sinh năm 1997 (vắng mặt).

Trú tại: xã I, huyện C, tỉnh G.

-Anh: Phạm Hồng S - sinh ngày 03/9/2002, có bà Nguyễn Thị H (mẹ đẻ) là người đại diện hợp pháp (vắng mặt).

Cùng trú tại: xã I, huyện C, tỉnh G

+ Người làm chứng:

-Anh: Trần Viết V - sinh ngày 15/3/ 2001 (có mặt). Trú tại: xã H, huyện C, tỉnh G

+ Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hồng P: Luật sư Tống Đức Ng - Văn phòng Luật sư H, thuộc đoàn luật sư tỉnh G (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng cuối tháng 10/2019, Nguyễn Hồng P mua 01 bì ma túy loại Cỏ Mỹ của một người thanh niên (không biết tên tuổi địa chỉ) ở khu vực gần công viên trên đường Nguyễn Viết X, thuộc Phường Hội Phú, thành phố Pleiku với số tiền 200.000đồng. Sau đó, P đưa về nhà lấy một ít để sử dụng, phần còn lại thì chia nhỏ ra thành 06 bì để bán cho người khác kiếm lời. Trong khoảng thời gian từ cuối tháng 10/2019 đến ngày 11/11/2019, P đã bán cho các đối tượng ngiện hút, cụ thể:

Lần thứ nhất: Ngày 31/10/2019, Nguyễn Văn X, sinh năm 1997, trú tại xã I, huyện C, tỉnh G gọi điện cho Nguyễn Hồng P, hỏi mua ma túy Cỏ Mỹ. P đồng ý rồi lấy 01 bì ma túy Cỏ Mỹ đưa đến xã I, huyện C, tỉnh G bán cho X với giá 100.000đồng. Bì cỏ Mỹ đó X đã sử dụng hết.

Lần thứ 2: Vào ngày 7/11/2019 Nguyễn Văn X gọi điện thoại cho P hỏi mua ma túy Cỏ Mỹ, P đem 01 bì ma túy Cỏ Mỹ đưa đến xã I, huyện C, tỉnh G bán cho X với giá 100.000đồng. Bì cỏ Mỹ đó X đã sử dụng hết.

Lần thứ 3: Vào ngày 09/11/2019 Nguyễn Hồng P bán cho Nguyễn Văn X 01 bì ma túy Cỏ Mỹ với giá 100.000đồng, tại xã I, huyện C, tỉnh G. Bì Cỏ Mỹ đó X đã sử dụng hết.

Lần thứ 4: Vào tháng 11/2019 (không nhớ rõ ngày), Phạm Hồng S gọi điện thoại cho Nguyễn Hồng Ph hỏi mua ma túy Cỏ Mỹ, P đồng ý rồi đi đến quán nhậu xã I, huyện C, tỉnh G bán cho S 01 gói ma túy Cỏ Mỹ giá 100.000đồng, S chưa đưa tiền cho P. Bì Cỏ Mỹ đó S đã dùng hết.

Lần Thứ 5: Vào khoảng 14 giờ 00 ngày 11/11/2019, Nguyễn Văn X ở nhà mình gọi điện thoại cho Nguyễn Hồng P, hỏi mua 02 bì ma túy loại Cỏ Mỹ mục đích để sử dụng thì P đồng ý và hẹn giao ở tiệm Intenet ở xã I, huyện C, tỉnh G. Sau khi gọi điện thoại xong thì X đi đến chơi ở tiệm Intenet để ngồi chờ. Còn Nguyễn Hồng P, sau khi nghe điện thoại của X xong thì lấy 02 bì Cỏ Mỹ rồi điều khiển xe máy hiệu Sirius biển kiểm soát 81K9-9xxx của gia đình mình đến rủ bạn là Trần Viết V, sinh ngày 15/3/2001 trú cùng xã với P nói đi nhậu cùng P ở xã I, huyện C, tỉnh G. Đến khoảng 15giờ 20 phút cùng ngày, P và V đi đến trước tiệm Intenet ở xã I, huyện C, tỉnh G thì P nói với V đứng ở trước quán chờ, còn P vào trong quán gặp và giao Cỏ Mỹ cho X, nhưng X chỉ có 100.000đồng, nên P bán cho X 01 bì ma túy Cỏ Mỹ. Khi cả hai đang giao dịch thì bị Công an huyện Chư Păh phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 bì Cỏ Mỹ và 100.000đồng trên người Nguyễn Hồng P, thu giữ 01 bì Cỏ Mỹ trên người Nguyễn Văn X. Ngoài ra còn thu giữ của P 01 điện thoại 0PP0 màu đen và chiếc xe máy hiệu Sirius biển kiểm soát 81K9-9692.

Tại bản kết luận giám định số: 1126/C09C(Đ4) ngày 15/11/2019 của phân viện khoa học Hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Mẫu thực vật khô màu xanh niêm phong trong bì ký hiệu 01 và 02 gửi giám định đều không có chất ma túy; khối lượng mẫu ký hiệu 01 là 1,131 gam; khối lượng mẫu ký hiệu 02 là 0,868 gam.

Đối với người thanh niên ở thành phố Pleiku đã bán ma túy cho Nguyễn Hồng P, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch, nên chưa có căn cứ để xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Trần Viết Vũ, vào ngày 11/11/2019 đã đi cùng với Nguyễn Hồng P đến thôn 1, xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, nhưng Vũ không biết P đi bán ma túy nên không xem xét xử lý.

Đối với hành vi sử dụng ma túy trái phép của Nguyễn Văn X và Phạm Hồng S, Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Păh đã ra quyết định xử lý hành chính.

Đối với chiếc điện thoại di động mà Nguyễn Văn X và Phạm Hồng S sử dụng để liên lạc mua bán ma túy với Nguyễn Hồng P. Hai chiếc điện thoại này bị mất nên không thu giữ được, Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 81K9-9692 là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn P1 (bố của P), khi P lấy xe đi mua bán trái phép chất ma túy ông P1 không biết, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông P1.

Tại bản cáo trạng số: 02/CT-VKS ngày 04 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Nguyễn Hồng P về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 54;

Điều 91; Điều 101, các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng P mức án từ: 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng đến 04 ( bốn) năm tù.

Về vật chứng:

Buộc Nguyễn Hồng phải nộp số tiền: 300.000đồng tiền thu lợi bất chính để sung công quỹ nhà nước (được khấu trừ 300.000đồng đã tạm nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Păh).

Tịch thu sung công số tiền 100.000đ bị cáo thu lợi bất chính và 01 chiếc điện thoại 0PP0 màu đen đã qua sử dụng bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy.

Về trách nhiệm dân sự: Người liên quan, bà Nguyễn Thị Kim Thủy là người nộp tiền thay cho bị cáo P, ông Nguyễn Văn P1 đã nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô biển kiểm soát 81K9-9692 và không ai có yêu cầu gì về dân sự, nên không đề cập đến.

Ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hồng P: Bị cáo Nguyễn Hồng P phạm tội ở độ tuổi vị thành niên, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, tự nguyện khai ra hành vi phạm tội trước đó, tự nguyện nhờ gia đình nộp tiền khắc phục hậu quả. Vì vậy đề nghị HĐXX cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất ở khung hình phạt liền kề.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Hồng P phạm tội như sau:

Từ ngày 31/10/2018 đến tháng 11/2019, tại địa bàn xã I, huyện C, tỉnh G, Nguyễn Hồng P đã có hành vi 04 lần bán ma túy Cỏ Mỹ cho các đối tượng Nguyễn Văn X, Phạm Hồng S, đến khoảng 15h20’ ngày 11/11/2019 khi P đang giao dịch bán cho Nguyễn Văn X 01 bì ma túy Cỏ Mỹ thì bị Công an huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai bắt giữ quả tang và thu giữ trên người của P01 bì ma túy Cỏ mỹ và 100.000đồng, thu trên người Nguyễn Văn X 01 bì ma túy Cỏ Mỹ.

Tại bản kết luận giám định số: 1126/C09C(Đ4) ngày 15/11/2019 của phân viện khoa học Hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Mẫu thực vật khô màu xanh niêm phong trong bì ký hiệu 01 và 02 gửi giám định đều không có chất ma túy; khối lượng mẫu ký hiệu 01 là 1,131 gam; khối lượng mẫu ký hiệu 02 là 0,868 gam nhưng bị cáo nhận thức được loại Cỏ Mỹ là ma túy, khi hút thì bị cáo nhận thấy có ảo giác như ma túy. Quá trình mua bán ma túy cho các đối tượng nghiện ma túy Nguyễn Hồng P đã thu lợi bất chính tổng số tiền là: 300.000đồng.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy Cỏ Mỹ của bị cáo Ngyễn Hồng P là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm vào đường lối chính sách của Đảng và pháp luật hình sự của nhà nước trong việc phòng chống, ngăn ngừa hiểm họa ma túy, bài trừ các tệ nạn xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý các chất gây nghiện của nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi mua bán ma túy bị cáo nhận thức được chất thực vật khô màu xanh là ma túy dạng “Cỏ Mỹ” bị pháp luật nghiêm cấm, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự, nhưng vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh truy tố bị cáo Nguyễn Hồng P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét nhân thân bị cáo thấy rằng: Bị cáo đang ở độ tuổi đi học đã học hết lớp 8/12 nhưng bị cáo không tiếp tục đi học để có trình độ văn hóa, tu dưỡng đạo đức trở thành người thanh niên tốt, rèn luyện bản thân, lao động tăng gia sản xuất để có thu nhập chính đáng nuôi sống bản thân và giúp gia đình mà chỉ vì muốn kiếm lợi nhuận bằng cách mua bán trái phép chất ma túy để có tiền nhanh mà bị cáo bất chấp coi thường pháp luật. Hơn nữa việc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy trong giai đoạn hiện nay đã trở thành cuộc chiến toàn cầu không chỉ một quốc gia nào trên thế giới. Vì vậy cần áp dụng cho bị cáo một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung. Tuy nhiên HĐXX nhận thấy khi vi phạm pháp luật bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi, nhận thức pháp luật còn hạn chế, nên cần xem xét cho bị cáo khi lượng hình.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình nộp số tiền thu lợi bất chính, tự nguyện khai báo hành vi phạm tội trước đó, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác minh và tại phiên tòa bị cáo khai chưa có tài sản riêng, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo đang ở độ tuổi vị thành niên, nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người thanh niên ở thành phố Pleiku đã bán ma túy cho Nguyễn Hồng P, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch, nên chưa có căn cứ để xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau, nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

Đối với Trần Viết V, vào ngày 11/11/2019 đã đi cùng với Nguyễn Hồng P đến xã I, huyện C, tỉnh G, nhưng V không biết P đi bán ma túy, nên không xem xét xử lý và không đề cập đến phần quyết định của bản án.

Đối với hành vi sử dụng ma túy trái phép của Nguyễn Văn X và Phạm Hồng S, Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Păh đã ra quyết định xử lý hành chính, nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

Đối với chiếc điện thoại di động mà Nguyễn Văn X và Phạm Hồng S sử dụng để liên lạc mua bán ma túy với Nguyễn Hồng P. Hai chiếc điện thoại này bị mất không thu giữ được, nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 81K9-9692 là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn P1 (bố của P), khi P lấy xe đi mua bán trái phép chất ma túy ông P1 không biết, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông P1, nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

Buộc Nguyễn Hồng P phải nộp số tiền: 300.000đồng tiền thu lợi bất chính để sung công quỹ nhà nước (được khấu trừ: 300.000đồng đã tạm nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Păh).

Về vật chứng: Tịch thu sung công số tiền 100.000đ và 01 chiếc điện thoại 0PP0 thu của bị cáo trong quá trình điều tra.

Về trách nhiệm dân sự: Người liên quan, bà Nguyễn Thị Kim T và ông Nguyễn Văn P1 không ai có yêu cầu gì về dân sự, nên không đề cập đến trong phần quyết định của bản án.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Chư Păh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hồng P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Hồng P phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 54; Điều 91; Điều 101, các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Hồng P1 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày (11/11/2019).

3/ Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:

- Vật chứng tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: Buộc Nguyễn Hồng P phải nộp số tiền: 300.000đồng để sung quỹ Nhà nước (được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng đã tạm nộp theo biên lai số: 0002032 ngày 12/5/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Chư Păh).

Tịch thu sung công: Số tiền 100.000đ và 01 chiếc điện thoại hiệu 0PP0 màu đen đã qua sử dụng, màn hình điện thoại bị nứt, bể, không kiểm tra được chi tiết bên trong.

(Vật chứng tiêu hủy và sung công theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/3/2020 giữa Cơ quan CSĐT và Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai).

4/ Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Buộc bị cáo: Nguyễn Hồng P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo, người đại diện theo pháp luật, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (11/6/2020) lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để xin xét xử phúc thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HS-ST ngày 11/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về