Bản án 09/2020/HSST ngày 11/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 09/2020/HSST NGÀY 11/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2019/HSST ngày 09 tháng 01 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 01 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Trần Xuân N - Sinh ngày: 16/11/1988 tại Thái Bình;

Nơi cư trú: Thôn N, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Xuân N và bà Vũ Thị C; có vợ là Chu Thị P và chưa có con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Quyết định số 2605/QĐ-UB ngày 27/10/2009 của Ủy ban nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục chữa bệnh bắt buộc đối với Trần Xuân N trong thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 13/10/2011.

Bản án số 182/2014/HSST ngày 20/10/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xử phạt Trần Xuân N 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/01/2015; chấp hành xong án phí hình sự thẩm ngày 24/12/2014; chấp hành xong 200.000 đồng tiền sung quỹ Nhà nước ngày 27/11/2017.

Bản án số 06/2015/HSST ngày 10/02/2015 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt Trần Xuân N 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/9/2015; chấp hành xong án phí hình sự thẩm ngày 19/3/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/11/2019 đến ngày 15/11/2019 chuyển tạm giam có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Ngọc K - Sinh ngày: 07/7/1987 tại Thái Bình;

Nơi cư trú: Thôn Hòa Bình, xã Vũ Ninh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; có vợ (đã ly hôn) và 01 con; Tiền án: Không.

Tiền sự: Quyết định số 31/QĐ-TA ngày 15/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Phạm Ngọc K trong thời hạn 18 tháng, chấp hành xong ngày 02/11/2019.

Nhân thân: Quyết định số 1601/QĐ-CT ngày 03/6/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội đối với Phạm Ngọc K trong thời hạn 12 tháng, chấp hành xong ngày 22/5/2014.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/11/2019 đến ngày 15/11/2019 chuyển tạm giam có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Chu Thị P, sinh năm 1998 (có mặt).

Nơi cư trú: Thôn N, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 12/11/2019, tại khu vực ngõ 1, đường Nguyễn Tông Quai, tổ 23, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình tổ công tác Công an phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình yêu cầu Trần Xuân N, Phạm Ngọc K và anh Đặng Xuân T dừng xe để kiểm tra vì nghi có liên quan đến ma túy. Quá trình kiểm tra có sự chứng kiến của ông Trần Văn T, sinh năm 1955, trú tại số nhà 13, tổ 06, phường T, thành phố thái Bình và ông Tô Minh T, sinh năm 1958, trú tại số nhà 449, tổ 09, phường T, thành phố Thái Bình, bị cáo N tự giác giao nộp từ lòng bàn tay trái của mình cho tổ công tác 01 gói bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo N khai là ma túy, loại Herôin. Tổ công tác yêu cầu các bị cáo N, bị cáo K và anh T đồng thời mời những người chứng kiến về trụ sở Công an phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình để làm việc. Tại đây kiểm tra quản lý tại túi áo khoác bên trái bị cáo N đang mặc 01 điện thoại di động Masstel màu đen và 20.000 đồng; quản lý tại túi quần bên phải bị cáo K đang mặc 01 điện thoại di động Nokia 105 màu xanh và 90.000 đồng; kiểm tra xe máy của bị cáo N và người anh T không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.

Quá trình điều tra bị cáo N khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 12/11/2019, bị cáo điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda-Wave alpha, màu xanh đen, không đeo biển số đăng ký đến quán nước vỉa hè đường Lý Bôn, thuộc tổ 35, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình thì gặp bị cáo Phạm Ngọc K đang ngồi uống nước. Khi gặp nhau bị cáo K nói với bị cáo “Bạn biết chỗ nào bán ma túy thì đi mua về tôi với bạn sử dụng đi”, bị cáo nói “tôi không có tiền”, bị cáo K nói “tôi có tiền đây rồi”, bị cáo K đưa cho bị cáo 500.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng). Bị cáo đồng ý đi mua ma túy và nhận tiền bị cáo K đưa rồi điều khiển xe máy của mình đến khu vực đường Phan Bá Vành, thuộc tổ 38, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình. Tại đây bị cáo gặp một người phụ nữ khoảng 35 tuổi, không biết tên, địa chỉ đang đứng một mình ở vệ đường, bị cáo hỏi “Chị có ma túy không bán cho em 500.000 đồng”, người phụ nữ nói “có, đưa tiền đây”, bị cáo đưa 500.000 đồng cho người phụ nữ, người phụ nữ nhận tiền rồi đưa lại cho bị cáo 01 gói ma túy, bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bị cáo cầm gói ma túy ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe về quán nước gặp bị cáo K. Khi bị cáo và bị cáo K lên xe máy đi tìm chỗ sử dụng ma túy thì anh Đặng Xuân T, sinh năm 1985, trú thôn H, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình là bạn quen ngoài xã hội nói “cho anh đi nhờ một đoạn”, bị cáo và bị cáo K đồng ý. Bị cáo điều khiển xe máy chở anh T ngồi giữa và bị cáo K ngồi sau. Khi đi đến khu vực ngõ 1, đường Nguyễn Tông Quai, tổ 23, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình tổ công tác Công an phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình bắt quả tang.

Bị cáo K khai nhận có đưa cho bị cáo N số tiền 500.000 đồng để bị cáo N đi mua ma túy về sử dụng chung như lời bị cáo N khai nhận tại phiên tòa.

Người làm chứng anh Đặng Xuân T khai có gặp bị cáo N và bị cáo K và có đi nhờ xe máy nhưng không biết hai bị cáo có ma túy cho đến khi bị bắt quả tang.

Bản kết luận giám định số 418/KLGĐ-PC09 ngày 13/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng thu giữ của Trần Xuân N, sinh năm 1988, trú quán tại thôn N, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình, ngày 12/11/2019” là ma túy, loại Heroine (Hêrôine) có khối lượng 0,3331 gam.

Tại cáo trạng số 08/CT-VKSTP ngày 08 tháng 01 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình quyết định truy tố các bị cáo Trần Xuân N và Phạm Ngọc K về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Xuân N và Phạm Ngọc K phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Về hình phạt: Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Xuân N mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Ngọc K mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo các bị cáo Trần Xuân N và Phạm Ngọc K đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố, không trình bày lời bào chữa tranh luận gì, và đều nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hôi đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên, của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đúng quy định pháp luật, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Trần Xuân N và Phạm Ngọc K đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo là những chứng cứ chứng minh cho các hành vi của các bị cáo là đúng sự thật đồng thời còn được chứng minh bằng các chứng cứ khác như lời khai của những người chứng kiến anh Bùi Văn H và anh Đào Văn H, biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định về khối lượng và chất ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, sự việc và đồ vật. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định như sau: Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 12/11/2019, tại khu vực ngõ 1, đường Nguyễn Tông Quai, tổ 23, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, bị cáo Trần Xuân N có hành vi tàng trữ trong người 01 gói ma túy, loại Herôin, có khối lượng 0,3331 gam, bị tổ công tác Công an phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Nguồn tiền mua số ma túy trên là của bị cáo Phạm Ngọc K đưa số tiền 500.000 đồng cho bị cáo N đi mua về với mục đích để hai bị cáo sử dụng chung.

[3] Các bị cáo đều là những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đều thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, tàng trữ chất ma túy không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, mục đích sử dụng cho bản thân, loại ma túy, khối lượng ma túy tương ứng với quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ...;

c) Hêrôin, ....có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;...”

Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Trần Xuân N và Phạm Ngọc K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy: Các bị cáo Trần Xuân N và Phạm Ngọc K đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị can K có mẹ đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của các bị cáo thấy: Hành vi của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự xã hội, vi phạm pháp luật hình sự.

Đối với bị cáo K là người khởi xướng hành vi phạm tội và là người cung cấp tiền cho bị cáo N đi mua ma túy còn bị cáo N là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội nên cả hai bị cáo có vai trò đồng phạm ngang nhau. Bị cáo K có một tiền sự về việc cai nghiện và có nhân thân không tốt một lần bị xử lý hành chính về việc cai nghiện, còn bị cáo N cũng có nhân thân xấu một lần bị xử lý hành chính về việc cai nghiện và hai lần bị kết án về hành vi và trộm cắp tài sản.

Vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm đối với các bị cáo là phạt tù có thời hạn buộc cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định mới đảm bảo hiệu quả của việc cải tạo, giáo dục cũng như phòng ngừa tội phạm chung.

Các bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân, hoàn cảnh điều kiện kinh tế của các bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Bị cáo N khai mua ma túy của một người phụ nữ không biết tên, tuổi địa chỉ. Vì vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý đối với người bán ma túy.

[6] Về vật chứng của vụ án: Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo N còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di động Masstel màu đen và 20.000 đồng thu giữ của bị cáo N và chiếc điện thoại di động Nokia 105 màu xanh và 90.000 đồng thu giữ của bị cáo K các bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho các bị cáo.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda-Wave alpha, màu xanh đen, không đeo biển kiểm soát (N khai bị rơi mất biển kiểm soát), tài liệu điều tra xác định đó là xe máy của chị Chu Thị P, sinh năm 1998, trú tại thôn N, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình là vợ của bị can N. Ngày 12/11/2019, chị P không biết N lấy xe máy đi mua ma túy. Vì vậy trả lại cho chị P.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Xuân N và Phạm Ngọc K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Xuân N 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/11/2019. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc K 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/11/2019. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo Trần Xuân N còn lại sau giám định.

Trả lại bị cáo Trần Xuân N 01 chiếc điện thoại di động Masstel màu đen và 20.000 đồng.

Trả lại bị cáo Phạm Ngọc K 01 chiếc điện thoại di động Nokia 105 màu xanh và 90.000 đồng.

Trả lại chị Chu Thị Pha 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda-Wave alpha, màu xanh đen số khung RLHJA 3902 HY309360 số máy JA39E - 0309434.

(Các vật chứng có đặc điểm mô tả chi tiết trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an thành phố Thái Bình và cơ quan Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình.)

4. Về án phí: Nghị quyết 326/2016 của UBTVQH ngày 30/12/2016 về lệ phí, án phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Trần Xuân N và Phạm Ngọc K mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/02/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HSST ngày 11/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về