Bản án 09/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐÔNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2019/HSST ngày 27 tháng 03 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vàng Thị C (tên gọi khác: Không); Sinh năm: 1987; Nơi sinh: Huyện M, tỉnh Y; Nơi cư trú: Bản G, xã N, huyện Đ, tỉnh B; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hóa: Không học; Dân tộc: H'Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vàng A P (Đã chết) và bà Sùng Thị S (Đã chết); Chung sống như vợ chồng với Thào A C, sinh năm: 1984, hiện đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam Ninh Khánh - Ninh Bình; có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/12/2018 cho đến nay. Có mặt.

Người phiên dịch cho Bị cáo Vàng Thị C: Ông Lý A T, sinh năm: 1996 Dân tộc: H'Mông.

Địa chỉ: Tổ 10, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh B. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 03/12/2018, tổ công tác công an huyện Điện Biên Đông phối hợp với công an xã K đang làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực bản H, xã K, huyện Đ phát hiện tại nhà Sùng Thị M, sinh năm 1979 trú tại Bản H, xã K, huyện Đ, tỉnh B có nhiều đối tượng tụ tập nghi vi phạm pháp luật, tổ công tác đi vào kiểm tra thì các đối tượng bỏ chạy thoát còn lại Vàng Thị C, sinh năm 1987 một tay đang ôm giữ vào áo con bên trái, qua kiểm tra phát hiện có 01 gói nilon màu đen bên trong có 01 cục bột màu trắng dạng nén, nghi là Heroine, kiểm tra bên trong chiếc túi giả da màu đen C đang đeo trên người có 01 gói nilon màu trắng bên trong có 01 cục bột màu trắng nghi là Heroine và  03 viên dạng nén màu hồng, nghi là Methamphetamine được gói chung 01 gói nilon màu trắng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản, bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng đưa về cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên để điều tra làm rõ.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng đối với vật chứng thu giữ của Vàng Thị C gồm số chất bột màu trắng đục dạng nén nghi Heroine có khối lượng là 3,77 gam, trích 0,32 gam gửi giám định và 0,3 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp có khối lượng là 0,3 gam, trích gửi giám định 0,1 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 129/GĐ-PC09 ngày 10/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vàng Thị C gửi giám định là ma túy: Loại Heroine có khối lượng 3,77 gam và mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Vàng Thị C gửi giám định là ma túy: Loại Methamphetamine có khối lượng 0,3 gam.

Tại phiên tòa, quá trình xét hỏi bị cáo đều thừa nhận có hành vi cất giấu ma túy với mục đích để sử dụng và bán kiếm lời, bị cáo cùng người đàn ông dân tộc Mông tên T (tự khai có quốc tịch Lào) đã bán ma túy cho nhiều đối tượng không biết tên, tuổi, địa chỉ thu được tổng số tiền 2.096.000 đồng và đã bán cho Vàng A D 5 phân Heroine thu được 5.000.000 đồng và Vàng A V một gói Heroine thu được 10.000 đồng. Số ma túy còn lại 0,3 gam Methamphetamine và 3,77 gam Heroine chưa kịp bán thì bị tổ công tác làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định và các bản cung có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số: 10/CT-VKS-ĐBĐ ngày 25 tháng 03 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Vàng Thị C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vàng Thị C cả về tội danh và điều luật áp dụng. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Vàng Thị C từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; về vật chứng vụ án áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, xử lý vật chứng theo quy định pháp luật; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định pháp luật.

Lời nói sau cùng tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Bị cáo chỉ mong Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt ở mức thấp nhất cho bị cáo để sớm trở về với gia đình làm lại cuộc đời, sống có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên Đông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo Vàng Thị C thấy rằng: Tại phiên tòa bị cáo Vàng Thị C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố: Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 03/12/2018, tại nhà Sùng Thị M, sinh năm 1979 trú tại Bản H, xã K, huyện Đ, tỉnh B. Có nhiều đối tượng tụ tập nghi vi phạm pháp luật, khi tổ công tác vào kiểm tra, các đối tượng khác bỏ chạy còn lại C, một tay đang ôm giữ vào áo con bên trái, qua kiểm tra phát hiện có 01 gói nilon màu đen bên trong có 01 cục bột màu trắng dạng nén, nghi là Heroine, kiểm tra bên trong chiếc túi giả da màu đen C đang đeo trên người có 01 gói nilon màu trắng bên trong có 01 cục bột màu trắng nghi là Heroine và 03 viên dạng nén màu hồng, nghi là Methamphetamine được gói chung 01 gói nilon màu trắng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản, bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng đưa về cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên để điều tra làm rõ. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vàng Thị C đã có hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước, làm mất ổn định trật tự an toàn xã hội. Mặc dù hành vi đơn giản mua tàng trữ sử dụng nhưng thuộc trường hợp nghiêm trọng cho nên bị cáo Vàng Thị C phải chịu trách nhiệm đối với hành vi đã gây ra.

Trong vụ án có liên quan đến người đàn ông dân tộc Mông tên Sùng A T bị cáo khai là mang quốc tịch Lào. Quá trình điều tra chưa làm rõ được nên cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên chưa điều tra xử lý trong vụ án, HĐXX chấp nhận.

Đối với các đối tượng: Sùng Thị M, Vàng A D, Vàng A V là người cho Vàng Thị C nghỉ nhờ và mua Heroine của C sử dụng, quá trình điều tra chưa làm rõ được, nên chưa đề cập xử lý trong vụ án này.

[3]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Tuy chỉ mang tính chất giản đơn nhưng rất nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và là người đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử, xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.

[4].Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy nghề nghiệp bị cáo làm nương, đối tượng nghiện chất ma túy hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, khó có điều kiện để thi hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5].Về xử lý vật chứng vụ án:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố hình sự: tịch thu tiêu hủy 3,77 gam Heroine, giám định hết 0,32 gam, còn lại 3,45 gam và 0,3 gam Methamphetamine, giám định hết 0,1 gam, còn lại 0,2 gam là chất thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 chiếc túi giả da màu đen, có quai đeo cũ đã qua sử dụng, 01 chiếc cân tiểu ly đã cũ không còn giá trị sử dụng là những công cụ dùng vào việc phạm tội; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động dạng bàn phím, màu vàng, nhãn hiệu GIONEE có IMEL: 865552026004147 và 01 chiếc điện thoại di động dạng bàn phím, màu đen có viền cạnh màu đỏ, nhãn hiệu Masstel có số IMEL: 354662090223933; 01 chiếc điện thoại di động dạng bàn phím, màu đen có viền cạnh màu đỏ, nhãn hiệu GIONEE có số IMEL: 863718038031939 đều cũ đã qua sử dụng là công cụ phạm tội. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 10.000đ do bị cáo bán ma túy mà có. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo số tiền 1.975.000đ không liên quan đến vụ án. Đối với số tiền 7.096.000đ là tiền bị cáo khai bán ma túy cho nhiều đối tượng mà có. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa không có cơ sở chứng minh số tiền trên liên quan đến tội phạm. Do vậy, cần trả lại cho bị cáo.

[6].Về án phí: Bị cáo Vàng Thị C bị kết án lẽ ra phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nhưng Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là đồng bào dân tộc H'Mông, đang cư trú tại xã N, huyện Đ, tỉnh B là nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vàng Thị C phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng Thị C 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng (Năm năm sáu tháng) tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 03/12/2018).

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố hình sự tịch thu tiêu hủy 3,45 gam Heroine và 0,2 gam Methamphetamine còn lại sau giám định, là chất thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 chiếc túi giả da màu đen, có quai đeo cũ đã qua sử dụng và 01 chiếc cân tiểu ly đã cũ không còn giá trị sử dụng là những công cụ dùng vào việc phạm tội; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động dạng bàn phím, màu vàng, nhãn hiệu GIONEE có IMEL: 865552026004147 và 01 chiếc điện thoại di động dạng bàn phím, màu đen có viền cạnh màu đỏ, nhãn hiệu Masstel có số IMEL: 354662090223933; 01 chiếc điện thoại di động dạng bàn phím, màu đen có viền cạnh màu đỏ, nhãn hiệu GIONEE có số IMEL: 863718038031939 đều cũ đã qua sử dụng là công cụ phạm tội. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 10.000đ do bị cáo bán ma túy mà có. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo số tiền 1.975.000đ và 7.096.000đ tổng là 9.071.000 đồng vì không liên quan đến vụ án.

Vật chứng trên đã được niêm phong và bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 14 giờ 00 phút  ngày 27/03/2019 giữa cơ quan Công an huyện Điện Biên Đông và Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điên Biên.

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án : Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo: Vàng Thị C.

4. Bị cáo Vàng Thị C được quyền kháng cáo toàn bộ bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 25/4/2019)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên Đông - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về