Bản án 09/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2019/HSST NGÀY 25/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa công khai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2019/QĐXXST-HS, ngày 12 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Phú Th, sinh năm 1996; tại: xã K, huyện N, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Thôn N, xã K, huyện N, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm Phú T (đã chết) và bà Phạm Thị M, sinh năm 1974; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/12/2018, chuyển tạm giam từ ngày 04/12/2018 đến nay tại Trại tạm giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Phú T, sinh năm 1946; Địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện N. Vắng mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1969 và anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1989; Đều trú tại: thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương. Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Phú Th là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 11 giờ, ngày 01/12/2018, Th một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Cup màu đỏ, không có biển số của Th đi từ nhà ở xã K, huyện N, tỉnh Hải Dương đến khu vực cầu Ràm thuộc xã T, huyện N, tỉnh Hải Dương mục đích để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đó, Phạm Phú Th gặp một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, ở đâu, đứng ở ven đường Th có hỏi người này: “Có bán ma túy không”. Người đàn ông nói: “Có”, Th đưa 400.000 đồng, người đàn ông đó cầm tiền và đưa cho Th 02 đoạn ống nhựa màu trắng có kích thước lần lượt là 02 x 01 cm và 1,6 x 01 cm bên trong có chứa tinh thể dạng cục màu trắng, Th không kiểm tra nhưng xác định đây là ma túy cầm cho 02 ống nhựa có chứa chất ma túy vào vỏ bao thuốc lá Vinataba và cầm trong lòng bàn tay phải rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Đến khoảng 12 giờ 15 phút, cùng ngày khi Th điều khiển xe mô tô đi đến đoạn đường tỉnh lộ 396 thuộc thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương thì Công an huyện Ninh Giang kết hợp với Công an xã Hồng Dụ phát hiện, kiểm tra, lúc này Th đã vứt vỏ bao thuốc lá bên trong có 02 ống nhựa có chứa chất ma túy xuống mương nước cạnh đó nhằm phi tang. Công an huyện Ninh Giang phát hiện đã yêu cầu Th nhặt lên, Th khai nhận là ma túy đá Th vừa mua về sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt giữ. Công an huyện Ninh Giang đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ của Th 02 ống nhựa có chứa chất ma túy và 01 xe mô tô không có biển kiểm soát.

Tại Kết luận giám định số 630/KLGĐ ngày 01/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2121 gam, là loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng sau giám định 0,0729 gam tinh thể tinh thể và vỏ bao bì của mẫu vật được niêm phong lại trong bì thư Tại Cáo trạng số 12/CT-VKS-NG ngày 11/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân (viết tắt là VKSND) huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương truy tố Phạm Phú Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (viết tắt là BLHS).

Đại diện VKSND huyện Ninh Giang giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Phú Th phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS; Xử phạt bị cáo Th từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 01/12/2018. Hình phạt bổ sung: Không. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, 2 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS; Tịch thu tiêu hủy 0,0729 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định. Trả lại cho ông Phạm Phú T 01 xe mô tô màu đỏ nhãn hiệu Cup, không đeo biển kiểm soát, không có giấy đăng ký, xe bị vỡ đèn xi nhan trái, không có gương chiếu hậu trái, xe có số khung: C70-6419391 và số máy: C70E- 5019341; Về án phí: Bị cáo có tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Ninh Giang, Điều tra viên, VKSND huyện Ninh Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo Phạm Phú Th tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 15 phút, ngày 01/12/2018, tại đường tỉnh lộ 396 thuộc địa phận thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương, Phạm Phú Th đang có hành vi cất giấu trái phép tại lòng bàn tay phải của mình 0,2121 gam ma túy (Không phẩy hai nghìn một trăm hai mươi mốt gam) là loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân, thì bị Công an huyện Ninh Giang phối hợp với Công an xã Hồng Dụ phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tang vật. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang truy tố bị cáo Phạm Phú Th về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Phạm Phú Th là đối tượng nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng. HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1, 2 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

Đối với 01 xe mô tô màu đỏ nhãn hiệu Cup, không đeo biển kiểm soát, không có giấy đăng ký, xe bị vỡ đèn xi nhan trái, không có gương chiếu hậu trái, xe có số khung: C70-6419391 và số máy: C70E- 5019341. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và ông Phạm Phú T đều trình bày bị cáo mượn xe của ông Thái. Ông Thái trình bày xe mô tô trên ông Thái mua và sử dụng đã lâu, xe đã mất biển kiểm soát và đăng ký, bị cáo mượn xe ông không biết dùng vào việc đi mua ma túy. HĐXX xác định xe mô tô trên thuộc sở hữu hợp pháp của ông Thái nên trả lại cho ông Thái tiếp tục quản lý, sử dụng.

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Phạm Phú Th khai mua của người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở khu vực cầu Ràm thuộc xã T, huyện N, tỉnh Hải Dương nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ninh Giang không có căn cứ để xác minh, làm rõ để theo quy định của pháp luật. HĐXX không xem xét, giải quyết.

[8]. Về án phí: Bị cáo có tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Phú Th phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Phạm Phú Th 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 01/12/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, 2 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

Tch thu tiêu hủy 0,0729 gam (Không phẩy không nghìn bẩy trăm hai mươi chín gam) Methamphetamine hoàn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong, dán kín số 630/PC 09 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hải Phòng.

Trả lại cho ông Phạm Phú T, sinh năm 1946; Địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện N, tỉnh Hải Dương 01 xe mô tô màu đỏ nhãn hiệu Cup, không đeo biển kiểm soát, không có giấy đăng ký, xe bị vỡ đèn xi nhan trái, không có gương chiếu hậu trái, xe có số khung: C70-6419391 và số máy: C70E- 5019341 (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Ninh Giang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ninh Giang ngày 14/3/2019).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Phú Th phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 BLTTHS.

Bị cáo Phạm Phú Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/3/2019); Người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về