Bản án 09/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N -  TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 12 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phan Duy H (tên gọi khác: không) sinh ngày 13/3/1985, tại xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: thôn P, xã L, huyện N, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn) lớp 02/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn K và bà Vũ Thị H; có vợ là Phùng Thị T và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/11/2018 đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Ma Văn Hp (tên gọi khác: không) sinh ngày 18/01/1984 tại xã L, huyện N, tỉnh Bắc Kạn; nơi cư trú: thôn Pà, xã L, huyện N, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn) lớp 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ma Văn T (Đã chết) và bà Phương Thị N (Đã chết); chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/11/2018 đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho các bị cáo Ma Văn Hp và Phan Duy H: Bà Hoàng Thu Chung là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp Pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn theo quyết định số 448/QD-TGPL ngày 14/12/2018 và số 455/QD-TGPL ngày 20/12/2018 của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn về việc cử trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng,"có mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07 giờ 47 phút, ngày 16/11/2018, Phan Duy H nhà ở thôn P, xã , huyện N dùng điện thoại di động nhãn hiệu Masstel gọi điện cho Ma Văn Hp trú cùng thôn biết là H đang chuẩn bị đi Thái Nguyên tìm mua ma túy để sử dụng, Hp có nhờ mua thì gửi tiền cho H mua hộ và Hp đồng ý. H mang theo 300.000,đ của bản thân và 500.000,đ của Hp đưa nhờ mua hộ ma túy m đường Quốc lộ 279 chờ đón xe khách tuyến N - Thái Nguyên. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày H xuống xe tại bến xe khách Thái Nguyên và hỏi một số người lái xe ôm ở gần khu vực bến xe thì có một người đần ông khoảng 40 tuổi (không rõ lai lịch) nói với H là biết chỗ có bán ma túy, rồi người đàn ông này dùng xe mô tô chở H đi được khoảng 30 phút thì đến một đoạn đường vắng, lúc này người đần ông này hỏi H là mua ma túy bao nhiêu tiền, thì H nói mua 500.000,đ chia làm hai gói. Sau đó người đàn ông này gọi điện thoại cho một người khác và bảo H chờ ở gần đường. H chờ được khoảng 15 phút thì người đản ông này quay lại đưa cho Hoàng 02 gói nhỏ ma túy và H đưa cho người đàn ông này 500.000,đ. Khi người đàn ông bán ma túy đi khỏi thì H kiểm tra hai gói ma túy, kiểm tra xong H cho gói ma túy (Gói bàng túi nylon màu đen) vào trong chiếc tất bên trái H đang mặc, gói còn lại (Gói trong vỏ bao thuốc lá Sông cầu) H cất vào ống tay áo bên phải đang mặc. Sau đó H đi xe ôm ra khu vực cầu vượt thuộc phường T, thành phố Thái Nguyên chờ đón xe. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày H lên xe khách tuyến Hà Nội - N, khi lên xe được một đoạn thì H gọi điện thoại cho Hp báo là đã mua được ma túy và bảo Hp đón H ở ngã ba L, huyện N. Khoảng 21 giờ 20 phút cùng ngày H xuống xe ở ngã ba L thuộc thôn X thì bị tổ công tác Công an huyện N phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 21 giờ 30 phút cùng ngày đồng thời thu giữ toàn bộ các đồ vật, tài liệu trên người H gồm: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Masstel để ở trong túi quần bò trước bên phải đang mặc; 01 gói nhỏ được gói bằng giấy màu trắng xanh (loại giấy của vỏ bao thuốc lá Sông Cầu) bên trong có chứa gói nylon màu hồng, bên trong gói nylon màu hồng này có chứa chất màu trắng dạng cục để trong tay áo bên phải đang mặc; 01 gói nhỏ được gói bằng nylon màu đen bên trong có chứa chất màu trắng dạng bột và dạng cục để trong chiếc tất đang mặc bên chân trái. Tổ công tác tiến hành trích một lượng nhỏ chất bột màu trắng thử với thuốc thử Heroine, kết quả thuốc thử chuyển sang màu tím. Tổ công tác tiến hành niêm phong thu giữ toàn bộ số chất bột màu trắng dạng bột lẫn cục vào trong một phong bì. Còn Ma Văn Hp khi chưa kịp đón H cũng bị phát hiện và được tổ công tác Công an huyện N mời đến UBND xã L để làm việc, sau đó tạm giữ của Hp: 01 chiếc xe mô tô BKS 97F8-xxxx; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Ma Văn Hp.

Hồi 08 giờ 00 phút ngày 17/11/2018 tại trụ sở Công an huyện N cùng có mặt Phan Duy H, Ma Văn Hp, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện đã tiến hành mở niêm phong và cân xác định khối lượng chất bột, cục màu trắng thu giữ trên người H, kết quả: Cân riêng toàn bộ chất màu trắng dạng cục ở trong gói nhỏ được gói bằng giấy trắng xanh (Giấy của vỏ bao thuốc lá Thăng Long) có khối lượng là 0,149g, số chất màu trắng này được gói lại bằng giấy tráng niêm phong trong một phong bì mới, một mặt phong bì có ghi chữ “Mẫu vật gửi giám định vụ Phan Duy H ngày 16/11/2018” và ký hiệu là M1. Cân riêng toàn bộ chất màu trắng dạng bột, cục ở trong gói nhỏ được gói bằng túi nylon màu đen có khối lượng 0,292g, số chất màu trắng dạng bột, cục này được gói lại bằng giấy trắng niêm phong một mặt có ghi chữ “Mẫu vật gửi giám định vụ Phan Duy H ngày 16/11/2018” ký hiệu M2.

Trên cơ sở đó, vào hồi 10 giờ 00 phút và 11 giờ 10 phút ngày 17/11/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà ở của Phan Duy H và Ma Văn Hp, quá trình khám xét không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Ngày 17/11/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N đã ban hành quyết định trưng cầu giám định số 581 gửi Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn để giám định chất bột màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu M1, M2. Tại bản kết luận giám định số 01/KTHS-MT ngày 23/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,149g. Mẫu chất màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,292g. Sau khi giám định, mẫu chất trong phong bì ký hiệu M1 còn lại là 0,105g, mẫu chất trong phong bì ký hiệu M2 còn lại là 0,250g cùng phong bì, bao gói cũ niêm phong vào trong phong bì mới ký hiệu T01 hoàn trả lại cho Cơ quan trưng cầu.

Vật chứng và tài sản thu giữ, tạm giữ trong vụ án gồm:

- 01 phong bì được niêm phong ký hiệu G2 ghi dòng chữ “Tang vật còn lại tạm giữ của Phan Duy H ngày 16/11/2018”;

- 01 phong bì niêm phong có ký hiệu T01;

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ, đen đã qua sử dụng có số IMEI lần lượt là: 353353092049xxx và 3533530920049xxx;

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG vỏ màu hồng có ốp lưng dẻo màu vàng, có số IMEI lần lượt là: 3531200898475yy/yy và 3531210898475yy/yy;

- 01 chứng minh nhân dân số 09xxxxxx02 mang tên Ma Văn Hp.

Các vật chứng được bảo quản theo quy định của pháp luật.

- Ngày 29/01/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả 01 chiếc xe mô tô BKS 97F8-xxxx cho chủ sở hữu hợp pháp.

Tại bản cáo trạng số: 10/CT-VKS-Nx ngày 09/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện N để xét xử Phan Duy H và Ma Văn Hp về: "Tội tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS 2015).

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Phan Duy H và Ma Văn Hp khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố. Do bản thân họ đều nghiện ma túy nên mục đích đi mua và nhờ mua hộ ma túy là để về sử dụng cho bản thân.

Người bào chữa cho các bị cáo Ma Văn Hp và Phan Duy H: Bà Hoàng Thu Chung đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và bị cáo Hp được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 và cân nhắc khi quyết định mức hình phạt, cho các bị cáo hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để các bị cáo có điều kiện sớm trở về hòa nhập cộng đồng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và bổ sung cáo trạng như sau: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng; bị cáo H là dân tộc tày. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Phan Duy H và Ma Văn Hp phạm "Tội tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51 của BLHS 2015: Xử phạt bị cáo Phan Duy H từ 01 đến 03 năm tù; xử phạt xử phạt Ma Văn Hp từ 01 đến 02 năm tù; không áp dụng phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo. Trả lại 01 giấy chứng minh nhân dân cho Ma Văn Hp; tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 02 chiếc điện thoại di động; tịch thu tiêu hủy 02 phong bì được niêm phong ký hiệu G2 và T01; miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện N, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện N, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của Phan Duy H và Ma Văn Hp tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo H, Hp là người nghiện ma túy. Ngày 16/11/2018 H đã mang theo tiền của bản thân và của Hp gửi nhờ mua hộ ma túy đi xe khách xuống bến xe Thái nguyên tìm mua ma túy để về sử dụng cho bản thân các bị cáo. Tổng khối lượng Heroine bị tổ công tác Công an huyện N thu giữ trên người H vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 16/11/2018 tại ngã ba L (Thuộc thôn X), huyện N là 0,44 lg, trong đó có 0,149g Heroine là của H và 0,292g Heroine là của Hp.

Hành vi nêu trên của Phan Duy H và Ma Văn Hp đã phạm "Tội tàng trữ trái phép chất ma túy", tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của BLHS 2015, nội dung điều luật có nội dung:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ từ 01 năm đến 05 năm.

.. .c) Heroine.. .có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 0,5 gam;..."

Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Trong đó Phan Duy H phạm "Tội tàng trữ trái phép chất ma túy" với tổng khối lượng là 0,44 lg; Ma Văn Hp phạm "Tội tàng trữ trái phép chất ma túy" với khối lượng là 0,292g. Khi phạm tội, các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất biệt dược của Nhà nước, gây ra các tệ nạn ma túy; để lại hậu quả nặng nề cho gia đình có người nghiện và xã hội; làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương.

Xét về nhân thân: Các bị cáo không có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Hp có mẹ đẻ là bà Phương Thị N và bố đẻ là ông Ma Văn T được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương do đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên các bị cáo đều được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1 và Hp được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2, Điều 51 của BLHS 2015; các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tổng hợp các tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy phải xử lý nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của tùng bị cáo; cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo tính giáo dục và phòng ngừa chung, đồng thời tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án cho các bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung: Do bản thân các bị cáo có nghề nghiệp là lao động nông nghiệp, thu nhập thấp và không ổn định; các bị cáo đều thuộc hộ nghèo và đều cư trú thuộc xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, không có khả năng thi hành án, nên xét thấy cần miễn áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo là có cơ sở

Đối với người đàn ông đã bán Heroine cho Phan Duy H ngày 16/11/2018, do không xác định được lai lịch của người này nên Cơ quan Điều tra không có căn cứ để xử lý theo pháp luật là có căn cứ.

Trong quá trình điều tra do Phan Duy H đã thay đổi lời khai về hành vi của H, Hp góp tiền cho Nông Thiêm Th để mua ma túy và hành vi bán ma túy của H cho những người nghiện khác nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tách các hành vi trên của Phan Duy H, Ma Văn H để xử lý trong một vụ án khác là có căn cứ; đối với hành vi mua ma túy về sử dụng và bán ma túy cho những người nghiện khác cùng hành vi mua hộ ma túy cho H, Hp của Nông Thiêm Th đã được khởi tố, điều tra, truy tố trong một vụ án khác.

[4] Đánh giá về quan điểm bào chữa của người bào chữa cho các bị cáo: Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo H, Hp theo điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, riêng bị cáo Hp được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS; giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo; miễn hình phạt bổ sung bằng tiền và tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo là có cơ sở.

[5] Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Kiểm sát viên: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng là có căn cứ. Mức hình phạt của Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo Phan Duy H từ 01 năm đến 03 năm tù; Ma văn Hp từ 01 năm đến 02 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung với các bị cáo và biện pháp xử lý vật chứng, miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 02 phong bì được niêm phong ký hiệu G2 và T01 là vật chứng và vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel của Phan Duy H và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG của Ma Văn Hp là phương tiện phạm tội cần tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước;

- 01 chứng minh nhân dân số 09xxxxxx02 mang tên Ma Văn Hp gắn với nhân thân của Hp cần trả lại cho Ma Văn Hp.

Số lượng, tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện với Chi cục thi hành án dân sự huyện N lập ngày 24/5/2019.

[7] Về án phí: Các bị cáo đều thuộc hộ nghèo và cư trú tại xã thuộc khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đều có đơn xin miễn tiền án phí nên cần miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội phạm: Tuyên bố các bị cáo: Phan Duy H và Ma Vãn Hp phạm "Tội tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2] Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015; Điều 329 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Phan Duy H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 17/11/2018).

Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS 2015; Điều 329 của BLTTHS 2015.

- Xử phạt bị cáo Ma Văn Hp 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 17/11/2018).

Tiếp tục giam các bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để bảo đảm cho việc thi hành án.

[3] Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 của BLHS 2015 và Điều 106 BLTTHS 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì được niêm phong ký hiệu G2 và T01;

- Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG có ốp lưng dẻo màu vàng;

- Trả lại 01 chứng minh nhân dân số 09xxxxxx02 cho Ma Văn Hp.

Số lượng, tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện với Chi cục thi hành án dân sự huyện N lập ngày 24/5/2019.

[4] Về án phí: Áp dụng điểm đ, khoản 1 Điều 12 và Điều 14 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phan Duy H và Ma Văn H.

[5] Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Na Rì - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về