Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 27/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN THỊ XÃ TU, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã TU tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 499/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2018 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1981; địa chỉ thường trú: Số 641, đường TĐ, Khu vực 4, Phường 3, Th phố V, tỉnh Hậu Giang; tạm trú: Tổ 3, ấp P, xã C, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Văn Du, sinh năm 1973; thường trú: Số 641, đường TĐ, Khu vực 4, Phường 3, Th phố V, tỉnh Hậu Giang; tạm trú: Tổ 3, ấp P, xã C, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/11/2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu H và ông Lê Văn D chung sống với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã M, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 06, quyển số 01/2006, ngày 03/02/2006.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, cả hai cùng yêu thương chăm sóc lẫn nhau. Nhưng sau đó vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống và thường xuyên cãi vã, không có tiếng nói chung trong tất cả các lĩnh vực, không ai lắng nghe và tin tưởng nhau. Ngoài ra, ông Dcó quan hệ không trong sáng với người phụ nữ khác. Bà H đã nhiều lần khuyên can nhưng ông Dkhông thay đổi. Vợ chồng đã sống ly thân từ giữa năm 2018 cho đến nay. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông Lê Văn Du.

- Về con chung: Vợ chồng bà H và ông D có 02 con chung tên Lê Nguyễn Tiến Th, sinh ngày 22/01/2007 và Lê Nguyễn Huy Hg, sinh ngày 16/8/2015. Hiện tại các con đang sống chung với bà H. Vì vậy, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, yêu cầu ông Lê Văn D cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng, kể từ tháng 5 năm 2019.

- Về tài sản chung và vay nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lê Văn D được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng vắng mặt không lý do, không giao nộp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại Bản tự khai ngày 22/02/2019, con chung tên Lê Nguyễn Tiến Th trình bày: Nếu cha mẹ ly hôn thì cháu Th có nguyện vọng được sống với bà Nguyễn Thị Thu H.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU phát biểu tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu H và ông Lê Văn Dtự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã M, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 06, quyển số 01/2006, ngày 03/02/2006. Quá trình chung sống, vợ chồng bà H và ông Dđã xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân từ giữa năm 2018. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với ông Lê Văn Du.

+ Về việc nuôi con chung: Vợ chồng bà H và ông Dcó 02 con chung tên Lê Nguyễn Tiến Th, sinh ngày 22/01/2007 và Lê Nguyễn Huy Hg, sinh ngày 16/8/2015. Hiện tại các con đang sống chung với bà H. Bà H yêu cầu được quyền nuôi 02 con chung. Yêu cầu của bà H phù hợp với nguyện vọng của cháu Lê Nguyễn Tiến Th, phù hợp quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H, giao cho bà H được nuôi dưỡng cả hai con chung.

+ Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị Thu H yêu cầu ông Lê Văn Dphải cấp dưỡng nuôi 02 con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng là phù hợp pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

+ Về tài sản chung và vay nợ chung: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Bà Nguyễn Thị Thu H có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Văn D và yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn nên đây là vụ án “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo kết quả xác minh ngày 04/01/2019 của Toà án, ông Lê Văn D đăng ký tạm trú và đang cư trú tại địa chỉ: Tổ 3, ấp P, xã C, thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về việc vắng mặt bị đơn: Ông Lê Văn D đã nhận được thông báo thụ lý vụ án, thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 17/01/2019 và 21/02/2019 nhưng vắng mặt không lý do. Tòa án triệu tập hợp lệ ông Lê Văn D tham gia phiên tòa vào các ngày 11/3/2019 và 27/3/2019 nhưng ông D vắng mặt không lý do là từ bỏ quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình tại Tòa án. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ để giải quyết vụ án vắng mặt ông D theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu H và ông Lê Văn D là những người đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã xã M, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 06, quyển số 01/2006, ngày 03/02/2006 là hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông D.

Ông Lê Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, cũng không giao nộp cho Toà án văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, có căn cứ xác định ông D không có thiện chí mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ.

Khon 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không Th thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Xét thấy mâu thuẫn giữa bà H và ông Dđã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Bà Nguyễn Thị Thu H yêu cầu ly hôn với ông Lê Văn Dlà có căn cứ chấp nhận.

[4]. Về việc nuôi dưỡng con chung: Vợ chồng bà H và ông Dcó hai con chung tên Lê Nguyễn Tiến Th, sinh ngày 22/01/2007 và Lê Nguyễn Huy Hg, sinh ngày 16/8/2015. Hiện tại các con chung đang sống với mẹ. Bà Nguyễn Thị Thu H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.

Khon 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Cháu Lê Nguyễn Tiến Th đã đủ 07 tuổi trở lên trình bày nguyện vọng được sống với bà H nếu cha mẹ ly hôn. Đối với cháu Lê Nguyễn Huy Hg trên 36 tháng tuổi nhưng chưa đủ 07 tuổi hiện đang sống ổn định với mẹ.

Xét thấy, yêu cầu được quyền nuôi cả hai con chung của bà H không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị Thu H yêu cầu ông Lê Văn D có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng là phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]. Về tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7]. Xét, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8]. Về án phí: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị đơn ông Lê Văn D phải chịu án phí cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 85 và Điều 86 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” với bị đơn ông Lê Văn D như sau:

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với ông Lê Văn Du.

1.2 Về việc nuôi con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị Thu H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung tên Lê Nguyễn Tiến Th, sinh ngày 22/01/2007 và Lê Nguyễn Huy Hg, sinh ngày 16/8/2015.

1.3 Ông Lê Văn D có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 5 năm 2019 cho đến khi con tên Lê Nguyễn Huy Hg đủ 18 tuổi.

Bà Nguyễn Thị Thu H và ông Lê Văn D đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Ông Lê Văn D được quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông Lê Văn Dlạm dụng quyền đi lại thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Nguyễn Thị Thu H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Lê Văn Du. Vì lợi ích của con chưa Th niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.4 Về tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm; khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0014574, ngày 03/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TU, bà H không phải nộp thêm.

Ông Lê Văn D phải chịu án phí cấp dưỡng là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

3. Về quyền kháng cáo:

3.1 Bà Nguyễn Thị Thu H có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

3.2 Ông Lê Văn Dvắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 27/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về