Bản án 09/2018/HS-ST ngày 16/08/2018 về tội vi phạm qui định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH T, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 09/2018/HS-ST NGÀY 16/08/2018 VỀ TỘI VI PHẠM ĐKPTGTĐB

Ngày 16 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định  đưa vụ án ra xét xử số: 07/2018QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn K, Sinh 1997 tại xã Vĩnh T, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng. Nơi cư trú: Ấp 22, xã Vĩnh T, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn H và bà Nguyễn Thị L; vợ: Huỳnh Thị Cẩm L (đã ly hôn), có 01 người con sinh năm 2016; tiền án: Không, tiền sự: Có 01 tiền sự bị Công an huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 4.150.000 đồng vào ngày 04/12/2017 về hành vi điều khiển xe mô tô không đội mũ bảo hiểm cho người đi xe mô tô, xe máy, không chấp hành hiệu lệnh của người kiểm soát giao thông, chở theo hai người trên xe, trong hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 0,4 mg/lít khí thở và bị tước giấy phép lái xe hạng A1 04 tháng từ ngày 04/12/2017 đến ngày 03/3/2018; nhân thân: Không có án tích; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/3/2018 cho đến nay (Bị cáo có mặt).

Bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1991 (đã chết).

Đại diện hợp pháp của bị hại C: Bà Thạch Kim H, sinh năm 1986

Địa chỉ: Ấp15, xã Vĩnh L, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

2. Ông Lưu Thanh P, sinh năm 2002

Địa chỉ: Ấp Xa M, thị trấn P, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng (có mặt). Giám hộ cho Lưu Thanh P: Ông Lưu Trung H (là cha P)

Địa chỉ: Ấp Xa M, thị trấn P, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1969 (có mặt);

2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1967 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Ấp 22, xã Vĩnh T, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng

3. Ông Lưu Trung Hòa, sinh năm 1973

Địa chỉ: Ấp Xa M, thị trấn P, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

4. Bà Lâm Thị Minh H, sinh năm 1973

Địa chỉ: Ấp Xa M, thị trấn P, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

Người làm chứng: Lâm Quốc C, sinh năm 1995

Địa chỉ: Ấp số 8, thị trấn H, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ, ngày 12/12/2017 bị cáo Nguyễn Văn K điều khiển xe Mô tô nhãn hiệu Hon da RSX, mang biển kiểm soát 83P2-084.72 chở Lưu Thanh P lưu thông trên đường tỉnh lộ 937B từ hướng xã Vĩnh L về thị trấn H, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng, khi đến đoạn đường thuộc Km số 08 tỉnh lộ 937B, thuộc ấp số 8, thị trấn H, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng thì bị cáo điều khiển xe vượt lên xe mô tô chạy cùng chiều (không xác định được biển số xe và người điều khiển), lấn sang phần đường bên trái theo hướng lưu thông của bị cáo thì va chạm với xe Mô tô biển kiểm soát 69F2-9138 chạy ngược chiều do bị hại Nguyễn Văn C điều khiển chở theo vợ là Thạch Kim H, sinh năm 1986 và con là Nguyễn Phú Q, sinh năm 2012 làm cho bị hại C bị thương nặng được đưa đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ đến ngày 14/12/2017 thì tử vong, còn Lưu Thanh P bị gãy chân trái được người thân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Bạc Liêu sau đó chuyển đến Bệnh viện chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh điều trị đến ngày 29/12/2017 thì xuất viện, bị cáo cũng bị gãy chân trái được người thân đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa Bạc Liêu đến ngày 17/12/2017 thì xuất viện.

Kết quả khám nghiệm hiện trường cho thấy tại đoạn đường xảy ra va chạm giao thông là đường thẳng, mặt lộ rộng 04 m, không có vạch kẻ phân chia làn đường, không có hệ thống đèn chiếu sáng. Sau khi va chạm cả 02 xe đều ngã ở mép đường bên phải theo chiều đi của mình. Trên hiện trường để lại 04 vết cày đều là của xe 83P2-084.72 do bị cáo điều khiển, các vết cày trượt về phía trước có chiều hướng từ gần tâm lộ về phần lề phải đến khi xe dừng ở mép đường.

Kết quả thực nghiệm điều tra, dựng lại hiện trường cho thấy tại thời điểm xảy ra tai nạn, xe mô tô do bị cáo điều khiển chạy lấn sang bên trái đường đụng vào xe do Nguyễn Văn C điều khiển lưu thông ngược chiều gây ra tai nạn, có các số đo như sau:

- Từ trục trước xe 83P2-084.72 đo vào mép đường bên trái theo hướng xe 83P2-084.72 lưu thông là 1,5 m, lấn sang lề trái 0,5 m và cách tâm lộ 0,5 m.

- Từ trục sau xe 83P2-084.72 đo vào mép đường bên trái theo hướng xe 83P2-084.72 lưu thông là 1,63 m, lấn sang lề trái 0,37 m và cách tâm lộ 0,37 m.

Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số 213/PY.PC45 ngày 22/12/2017 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận nguyên nhân chết của Nguyễn Văn C là: vở lách, mất máu cấp/Tai nạn giao thông.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn K đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

Về vật chứng vụ án:

Trong quá trình điều tra, cơ quan Điều tra đã thu giữ: Thu giữ của bà Nguyễn Thị L:

- 01 xe môtô biển kiểm soát 83P2- 084.72, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu trắng – xanh – đen;

- 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 136383, mang biển số 83P2- 084.72;

- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm số 008260153 mang tên Nguyễn Thị L. Thu giữ của bà Thạch Kim H:

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 69F2- 9138, nhãn hiệu MINGXING màu đỏ-đen;

- 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 950112001753, mang tên Nguyễn Văn C;

- 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số A0037947, mang biển số 69F- 9183.

Về trách nhiệm dân sự:

- Bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả với số tiền 72.000.000 đồng cho gia đình bị hại C và được đại diện gia đình bị hại làm đơn bải nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo.

- Đối với bị hại Lưu Thanh P, sau khi bị tai nạn bị hại từ chối giám định tỷ lệ thương tích, tại phiên tòa bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tiền điều trị tổng cộng các khoản là 20.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 11/6/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo qui định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, phân tích đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội: “Vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ”. Về hình phạt: Đề nghị áp dụng Điểm a, Khoản 2, Điều 202, điểm b, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Xử phạt bị cáo từ 01 năm  đến 02 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự tự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại P, bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại P tổng cộng các khoản là 20.000.000 đồng. Về xử lý vật chứng đề nghị áp dụng Điểm b Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tuyên bố trả lại tài sản cho bà Nguyễn Thị L: 01 xe môtô biển kiểm soát 83P2- 084.72, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu trắng – xanh – đen; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 136383, mang biển số 83P2-084.72; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm số 008260153 mang tên Nguyễn Thị L. Giao trả cho bà Thạch Kim H là người đại diện cho bị hại C: 01 xe mô tô biển kiểm soát 69F2- 9138, nhãn hiệu MINGXING màu đỏ- đen; 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 950112001753, mang tên Nguyễn Văn C; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số A0037947, mang biển số 69F- 9183.

Bị cáo nói lời nói sau cùng là xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị  và người làm chứng Lâm Quốc C. Xét thấy, trong quá trình điều tra   người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị L và người làm chứng Lâm Quốc C đã có lời khai đầy đủ, việc vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị L và người làm chứng Lâm Quốc C không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 1 Điều 292, Khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị L và người làm chứng Lâm Quốc C.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường; biên bản thực nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 20 giờ ngày 12/12/2017 trên tuyến tỉnh lộ 937 B thuộc khu vực ấp số 8, thị trấn H, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 83P2- 084.72 vượt xe mô tô cùng chiều không đảm bảo an toàn, lấn sang sang đường bên trái đụng vào xe mô tô ngược chiều gây tại nạn giao thông, với lổi vi phạm là điều khiển xe đi không đúng phần đường qui định, hậu quả làm cho Nguyễn Văn C bị tử vong, còn bị cáo và Lưu Thanh P ngồi phía sau xe do bị cáo điều khiển bị gẩy chân.

Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi điều khiển xe lấn sang lề trái, đi không đúng phần đường qui định là vi phạm pháp luật, cụ thể là vi phạm vào Khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ gây hậu quả chết người. Tại thời điểm xảy ra tai nạn bị cáo không đủ điều kiện tham gia giao thông đường bộ, do vào ngày 28/11/2017 bị cáo điều khiển xe mô tô vi phạm luật Giao thông đường bộ bị Cảnh sát giao thông huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng tước giấy phép lái xe hạng A1 với thời hạn 04 tháng kể từ ngày 04/12/2017, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm qui định về điều khiển giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 11/6/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo về tội “Vi phạm qui định về điều khiển giao thông đường bộ” theo Điểm a Khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999,sửa đổi, bổ sung năm 2009 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội thì thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, với lổi vô ý, hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an toàn công cộng, gây thiệt hại về tính mạng và sức khỏe của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc mới đủ sức răn đe và giáo dục bị cáo trở thành công dân sống biết tuân thủ pháp luật.

[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng:

Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho gia đình nạn nhân, được đại diện nạn nhân bải nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo. Khi phạm tội không có tình tiết tăng nặng tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Do đó, áp dụng điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Căn cứ vào nhân thân bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo, phòng ngừa chung, ngoài ra còn thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Đại diện nạn nhân Nguyễn Văn C và bị cáo đã thương lượng thỏa thuận bồi thường xong và đại diện bị hại không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo và bị hại Lưu Thanh P cũng như người giám hộ cho bị hại P thỏa thuận bị cáo bồi thường cho bị hại P tổng cộng các khoản là 20.000.000 đồng. Xét thấy, việc thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại là tự nguyện, phù hợp với qui định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện bồi thường giữa bị cáo và bị hại. Đồng thời, buộc bị cáo bồi thường cho bị hai Lưu Thanh P tổng cộng các khoản là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo qui định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

[7] Về xử lý vật chứng:

Giao trả cho bà Nguyễn Thị L 01 xe môtô biển kiểm soát 83P2- 084.72, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu trắng – xanh – đen; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 136383, mang biển số 83P2- 084.72; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm số 008260153 mang tên Nguyễn Thị L.

Giao trả cho bà Thạch Kim H: 01 xe mô tô biển kiểm soát 69F2- 9138, hiệu MINGXING màu đỏ- đen; 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 950112001753, mang tên Nguyễn Văn C; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số A0037947, mang biển số 69F- 9183.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và 1.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Khoản 1 Điều 292; Khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho bị hai Lưu Thanh P tổng công các khoản là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo qui định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, tuyên bố:

Giao trả lại cho bà Nguyễn Thị L các tài sản gồm: 01 xe môtô biển kiểm soát 83P2- 084.72, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu trắng – xanh – đen; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 136383, mang biển số 83P2- 084.72; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm số 008260153 mang tên Nguyễn Thị L.

Giao trả lại cho bà Thạch Kim H các tài sản gồm: 01 xe mô tô biển kiểm soát 69F2- 9138, nhãn hiệu MINGXING màu đỏ- đen; 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 950112001753, mang tên Nguyễn Văn C; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số A0037947, mang biển số 69F- 9183.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Văn K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng (một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện bị hại, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị L thời hạn kháng cáo nêu trên kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại ủy ban nhân dân nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

369
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HS-ST ngày 16/08/2018 về tội vi phạm qui định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:09/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Trị - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về