Bản án 09/2018/HS-ST ngày 09/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 09/2018/HS-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 120/2017/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Viết T, sinh ngày 04 tháng 3 năm 1965 tại Hải Phòng.

Nơi cư trú: phường A, quận B, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 4/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Viết T1 (đã chết) và bà: Trần Thị T (đã chết); chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: Bản án số 78/1998/HSPT ngày 17/6/1998, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”; nhân thân: Bản án số 307/1995/HSST ngày 06/9/1995, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, Bản án số 64/1997/HSST ngày 20/8/1997, Tòa án nhân dân huyện An Hải (nay là huyện An Dương) xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/9/2017; có mặt.

- Bị hại: Dòng họ T (nhà thờ họ tại phường A, quận B, thành phố Hải Phòng)

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Trần Phú L, sinh năm 1946; nơi cư trú: phường A, quận B, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 06/6/2017 Trần Viết T đang làm việc tại nghĩa trang Vườn Quyến, phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thì có một người đàn ông không quen biết đến nói chuyện và thuê T chặt 01 cây gỗ trong khuôn viên lăng mộ của dòng họ T (tại nghĩa trang Vườn Quyến) rồi tập kết ra khu vực cổng chào thuộc tổ dân cư phường Đông Khê với giá 10.000.000 đồng; T đồng ý. Sau đó, T đến nhà chị Nguyễn Thị M (sinh năm 1977; nơi cư trú: phường A, quận B, Hải Phòng) là hàng xóm, mượn 01 cưa máy và nói với chị M để về cưa cây dại. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, trên đường mang cưa điện ra nghĩa trang chặt cây thì gặp Trần Ngôn V (sinh năm 1967; nơi cư trú: phường A, quận B, Hải Phòng). T kể cho V nghe việc có người nhờ chặt cây và trả công 10.000.000 đồng và đề nghị V tham gia, nếu được tiền sẽ bàn bạc chia nhau sau. V đồng ý. Cả hai ra khuôn viên lăng mộ của dòng họ T để chặt cây. Ở đây có 01 cây lâu năm, cao khoảng 4 - 5m, tán xòe rộng khoảng 4 - 5m. V giữ dây buộc cây gỗ còn T trực tiếp cưa cây. Sau khi chặt xong, V về trước còn T ở lại thu dọn. Đến sáng ngày 07/6/2017, lợi dụng trời mưa không ai để ý, T một mình bê các khúc gỗ cưa nhỏ từ thân cây gỗ của dòng họ T lên xe xích lô, vận chuyển ra khu vực cổng chào tổ dân phố phường Đông Khê để chờ người thuê chặt gỗ đến lấy. Ngày 08/6/2017, lực lượng bảo vệ nghĩa trang phát hiện ra cây gỗ bị chặt trộm đã thông báo cho ông Trần Phú L, trưởng tộc dòng họ T. Sau khi kiểm tra và phát hiện sự việc, ông L cùng lực lượng bảo vệ nghĩa trang truy tìm và phát hiện số gỗ của cây gỗ trong khuôn viên lăng mộ của dòng họ T gồm 51 đoạn gỗ được tập kết tại cổng chào tổ dân phố phường Đông Khê đã trình báo cơ quan công an và được thu giữ. Ngày 19/6/2017 Công an phường Đông Khê tiếp tục thu giữ số gỗ còn lại gồm 30 khúc gỗ tại nhà Trần Ngôn V, địa chỉ phường A, quận B, thành phố Hải Phòng.

Tại kết luận giám định mẫu thực vật số 584 ngày 10/7/2017 của Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam kết luận: Mẫu gỗ gửi giám định là gỗ cây Long não, tên khoa học là Cinamomum camphora (L.) Sieb thuộc dòng họ Long não Lauraceae.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 48/KL-HĐ ngày 13/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản, Ủy ban nhân dân quận Ngô Quyền kết luận: 1.523,9kg gỗ Long não, đến thời điểm bị xâm hại có giá 18.000 đồng/kg, tổng giá trị là 27.430.200 đồng.

Vật chứng của vụ án: 01 cưa máy nhãn hiệu Makita màu xanh đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị M. 81 đoạn gỗ có kích thước và trọng lượng khác nhau đã trả cho bị hại là dòng họ T, do ông Trần Phú L - trưởng tộc dòng họ là đại diện.

Tại bản Cáo trạng số 117/CT-VKS ngày 30/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Trần Viết T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Trần Viết T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Sau khi cùng với Trần Ngôn V chặt cây gỗ Long não của dòng họ T và cưa thành từng đoạn nhỏ; một mình bị cáo vận chuyển toàn bộ số gỗ ra khu vực cổng chào tổ dân phố phường Đông Khê. Bị cáo khai không biết vì sao có 30 đoạn gỗ ở nhà Trần Ngôn V nhưng bị cáo xác định số gỗ thu giữ ở nhà V là số gỗ bị cáo cưa từ cây gỗ Long não của dòng họ T. Khi bị cáo chặt cây, không có ai trong coi tại khuôn viên của lăng mộ dòng họ T. T khai không biết họ, tên người đàn ông đã thuê T chặt cây gỗ trong khuôn viên lăng mộ của dòng họ T. Mục đích bị cáo chặt cây để được trả tiền thuê 10.000.000 đồng.

Ông Trần Phú L, đại diện bị hại dòng họ T vắng mặt tại phiên tòa, có quan điểm thể hiện trong hồ sơ, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, dòng họ T đã được bị cáo bồi thường giá trị cây là 15.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng tại phiên toà giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về trách nhiệm hình sự: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Trần Viết T mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên không buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự .

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là dòng họ T đã nhận lại tài sản, được bị cáo bồi thường số tiền 15.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường thêm nên không đặt vấn đề giải quyết.

Về xử lý vật chứng của vụ án: đã được xử lý xong nên không đặt vấn đề giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về căn cứ xác định tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người bị hại, những người làm chứng có trong hồ sơ vụ án và vật chứng thu giữ có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 06/6/2017, bị cáo Trần Viết T đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, không có ai trông coi khu lăng mộ của dòng họ T tại nghĩa trang Vườn Quyến thuộc phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, Hải Phòng đã dùng cưa điện cưa cây gỗ Long não của dòng họ T và chặt ra thành từng khúc nhỏ, tập kết tại khu vực cổng chào thuộc tổ dân phố phường Đông Khê để được trả công 10.000.000 đồng. Bị cáo T khai được một người đàn ông thuê chặt cây gỗ Long não của dòng họ T nhưng không cung cấp được họ tên, nơi cư trú của người đàn ông thuê chặt cây nên phải xác định bị cáo chặt cây nhằm mục đích chiếm đoạt số tiền 10.000.000 đồng. Kết luận giám định mẫu thực vật số 584 ngày 10/7/2017 của Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam đã kết luận: Mẫu gỗ gửi giám định (lấy từ cây bị cáo chiếm đoạt của bị hại) là gỗ cây Long não, tên khoa học là Cinamomum camphora (L.) Sieb thuộc dòng họ Long não Lauraceae. Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 48/KL-HĐ ngày 13/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản kết luận giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 27.430.200 đồng. Vì vậy, hành vi của bị cáo Trần Viết T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009). Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đối với bị cáo Trần Viết T về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn xâm phạm trật tự công cộng, gây mất trị an xã hội. Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa và nhân thân đã 02 lần bị Tòa án xử phạt tù, chứng tỏ bị cáo là người có nhân thân xấu, có ý thức coi thường pháp luật và lần phạm tội này bị cáo còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt vì bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc và thu nhập nên không buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là dòng họ T đã được bị cáo bồi thường số tiền 15.000.000 đồng; không có yêu cầu bồi thường khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về vật chứng của vụ án: 01 cưa máy nhãn hiệu Makita màu xanh đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị M; 81 khúc gỗ có kích thước và trọng lượng khác nhau đã trả cho bị hại là dòng họ T, do ông Trần Phú L - trưởng tộc dòng họ là đại diện nên không đặt vấn đề giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14; bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Việc khởi tố, điều tra, truy tố và ban hành quyết định khởi tố, truy tố; áp dụng biện pháp ngăn chặn; tống đạt các văn bản; lấy lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; thời hạn điều tra, truy tố; thủ tục định giá trong Tố tụng hình sự đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, việc ủy quyền tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố của bị hại chưa đầy đủ đại diện các chi trong dòng họ T. Vì vậy, việc lấy lời khai của đại diện bị hại tại giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố chưa chặt chẽ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 333; khoản 1 Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14;

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Viết T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Trần Viết T 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

- Về án phí: Bị cáo Trần Viết T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo đối với bản án:

Bị cáo Trần Viết T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại dòng họ T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

- Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HS-ST ngày 09/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về