Bản án 09/2018/HSST ngày 04/05/2018 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 09/2018/HSST NGÀY 04/05/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 04/5/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2018/TLST- HS, ngày 14 tháng 3 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân Ph; sinh ngày: 10/8/1997 tại: Bình Định; Nơi cư trú: Ph K, C Tr, Phù Cát, Bình Định; nghề nghiệp: làm nông; Trình độ học vấn: lớp 6/12; Dân tộc: kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn L (Chết) và bà Trần Thị L1, SN: 1966; vợ: chưa có, đang sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị L2, SN: 2000; con: Nguyễn Ngọc Tường V, SN: 2017; tiền án: không, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Anh Trần Hà Minh V; sinh năm: 1997 (có mặt) Trú tại: Ph K, C Tr, Phù Cát, Bình Định.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Trần Văn H; sinh năm: 1997 (vắng mặt)

Trú tại: Ph K, C Tr, Phù Cát, Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 07/7/2017, Trần Văn H ở thôn Ph K, xã C Tr, huyện Phù Cát đến sân bóng thôn Ph Nh, xã C Tr chơi. Tại đây, H bị nhóm thanh niên rượt đuổi, nên bỏ xe mô tô chạy trốn. Sau đó, H gọi điện thoại nhờ Nguyễn Xuân Ph cùng mình đến sân bóng để lấy xe về thì phát hiện mất chìa khóa xe nên H dắt xe của mình về nhà.

Trưa ngày 08.7.2017, H, Ph, Nguyễn Văn D, Võ Thanh V, Lê Sơn V cùng ở thôn Ph K, C Tr, Phù Cát tổ chức ăn nhậu tại tiệm sắt nhôm T H Đ ở cùng thôn. Trong lúc nhậu, H nói về việc bị mất chìa khóa xe đêm hôm trước và rủ cả nhóm nhậu xong đi tìm chìa khóa xe mô tô bị mất. Lúc này, Nguyễn Xuân Ph nghe Võ Thanh V nói có cây gậy 3 khúc bằng kim loại để trong cốp xe nên bảo Võ Thanh V lấy xem, sau đó cất giữ trong túi quần của mình. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, cả nhóm đi xe mô tô xuống sân bóng thôn Ph Nh để tìm chìa khóa xe nhưng không tìm thấy, H rủ đến nhà Trần Hà Minh V ở Ph K, C Tr để hỏi tìm chìa khóa xe, vì đêm ngày 07.7.2017 H thấy Minh V ngồi nhậu tại sân bóng thôn Ph Nh. Khi đến nhà Minh V, D gọi điện bảo Minh V ra ngoài nói chuyện, V ra ngoài đứng nói chuyện với H. H hỏi: Chìa khóa xe của tao tối qua mày lấy bỏ đâu? Minh V trả lời: Tao không lấy, tao không biết. H hỏi tiếp: Giờ mày có trả tao không? Minh Vtrả lời: Thôi có gì để tao xuống nói lại với mấy thằng kia trả chìa khóa xe cho mày! Nghe vậy, H nhào tới dùng tay đánh V 3 cái vào mặt. Minh V ôm mặt ngồi xuống đất. Ph đứng cạnh đó cầm gậy 3 khúc đánh 03 cái trúng vào đầu, miệng và tay Minh V gây thương tích. Thấy Ph đánh Minh V, Võ Thanh V vào can ngăn ôm giữ Ph và giật lấy cây gậy 3 khúc. Sau đó mẹ của Minh V là bà Hà Thị Thu H từ nhà đi ra cản ngăn nên cả nhóm đi về. Trần Hà Minh V được gia đình đưa vào Trung tâm y tế huyện Phù Cát khám và điều trị nội trú từ 17 giờ 50 phút ngày 08/7/2017 đến 17 giờ ngày 17/7/2017 thì ra viện.

- Tại Bản giám định pháp y về thương tích số 240/2017/PY-TgT ngày 08/11/2017 của Trung tâm pháp y Bình Định đối với Trần Hà Minh V kết luận:

+ Chấn thương gây sưng nề vùng thái dương phải đã điều trị. Hiện vùng thái dương phải không có dấu vết, điện não đồ bình thường. Tỷ lệ: 0%.

+ Chấn thương gây sưng nề môi trên, gãy răng R2.1 đã điều trị. HiệnNiêm mạc môi trên để lại sẹo xơ kích thước (1x1)cm, mất răng R2.1. Tỷ lệ: 06%  Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 06%.

- Vật chứng tạm giữ: 01 gậy làm bằng kim loại inox màu trắng, gồm 03 khúc gắn liền nhau; khi kéo ra dài 66cm, khi thu lại dài 25cm; đường kính đầu to nhất 2,5cm, đường kính đầu nhỏ nhất 1,5cm; trên tay cầm có miếng lót cao su màu đen.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Trần Hà Minh V yêu cầu bồi thường tất cả các khoản thiệt hại về sức khỏe có chứng từ và không có chứng từ tổng cộng là 52.647.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Xuân Ph đã bồi thường cho người bị hại số tiền 2.000.000 đồng; Trần Văn H đã tự nguyện bồi thường 7.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 06/CT-VKSPC, ngày 13 tháng 3 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Ph  về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 104 Bộ Luật hình sự - năm 1999 (BLHS –1999).

Tại phiên tòa, trong phần thủ tục tranh luận, đại diện VKSND huyện Phù Cát trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng truy tố đối với bị cáo Nguyễn Xuân Ph về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS - 1999. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm a khoản 1 Điều 104, các điểm b, h, p khoản 1 Điều 46, Điều 47 của BLHS – 1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Ph với mức án từ 03 tháng tù đến 06 tháng tù.  Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại các khoản chi phí hợp lý điều trị thương tích là 27.354.000 đồng.

Trong phần tự bào chữa, bị cáo Nguyễn Xuân Ph thừa nhận hành vi mà mình đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nhưng đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, người bị hại Trần Hà Minh V đề nghị HĐXX xem xét quyết định mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về mặt tố tụng:

[1.1] Trong các giai đoạn điều tra, truy tố, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Ph và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của những người tiến hành tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Do đó, HĐXX có đủ căn cứ để xác định, ở các giai đoạn tố tụng này, hành vi của những người tiến hành tố tụng và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được đảm bảo, các nguyên tắc trong tố tụng hình sự được tôn trọng và thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[1.2] Mặc dù đã được tống đạt triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Văn H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do. Do đó, HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt anh H.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Xuân Ph đã khai nhận toàn bộ diễn biến của vụ án; thời gian, địa điểm và hành vi của bị cáo đã thực hiện đúng với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa như: Giấy chứng nhận thương tích số 23/CN ngày 17.02.2017 của Trung tâm y tế huyện Phù Cát, Bản giám định pháp y về thương tích số 240/2017/PY-TgT ngày 08/11/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định, lời khai của người bị hại Trần Hà Minh V, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn H và lời khai của những người làm chứng trong vụ án. Do đó, HĐXX có đủ căn cứ để kết luận, hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân Ph dùng gậy ba khúc bằng kim loại gây thương tích cho anh Trần Hà Minh V với tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 06% đã đủ yếu tố cấu thành tội "Cố ý gây thương tích" với tình tiết định tội "Dùng hung khí nguy hiểm" quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện trước 00 giờ ngày 01/01/2018 - ngày Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 có hiệu lực. Vì vậy, Bản cáo trạng số 06/CT-VKSPC ngày 13.3.2018 của VKSND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Ph về tội "Cố ý gây thương tích" theo điểm a, khoản 1 Điều 104 BLHS – 1999 là hoàn toàn đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương nên cần phải xử lý bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho người khác.

[4] Xét đặc điểm nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt, HĐXX thấy rằng: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn về diễn biến của vụ án và hành vi của mình đã thực hiện, tỏ rõ sự ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội, bị cáo đã bước đầu bồi thường để khắc phục một phần hậu quả cho người bị hại. Do đó, HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, h, p khoản 1 Điều 46, trên cơ sở đó áp dụng  Điều 47 của BLHS 1999 xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 104BLHS-1999 để bị cáo an tâm cải tạo tốt, sau khi tái hòa nhập cộng đồng trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự và các biện pháp tư pháp khác:

[5.1] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Anh Trần Hà Minh V yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe với tổng số tiền là 52.647.000 đồng, khấu trừ số tiền bị cáo đã bồi thường trước 2.000.000 đồng, anh Trần Văn H đã bồi thường 7.500.000 đồng nên yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 43.147.000 đồng. Bị cáo chỉ chấp nhận bồi thường cho anh V các khoản chi phí hợp lý cho việc cứu chữa nên đề nghị HĐXX xem xét.

[5.1.1] Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của người bị hại, HĐXX thấy rằng: Sau khi bị xâm phạm đến sức khỏe, anh Trần Hà Minh V đã được người thân trong gia đình đưa đến Trung tâm y tế huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định điều trị nội trú từ 17 giờ 50 phút ngày 08.7.2017 đến 17 giờ ngày 17.7.2017 thì ra viện. Các khoản chi phí thiệt hại có chứng từ (bao gồm viện phí, khám chứng thương, trồng răng) tổng cộng là 17.007.780 đồng. Anh V yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền này là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được HĐXX chấp nhận.

[5.1.2] Ngoài ra, người bị hại yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường các khoản thiệt hại không có chứng từ bao gồm: Tiền xăng đi lại trong thời gian nằm viện 500.000 đồng, thuê taxi từ Phù Cát đi Quy Nhơn chụp CT- Scanner sọ não 500.000 đồng, tiền mua thuốc điều trị sau khi ra viện 459.000 đồng, tiền mua sữa Ensure 2.160.000 đồng, chi phí phục hồi sức khỏe trong thời gian nằm viện và sau khi ra viện 1.800.000 đồng, chi phí giám định thương tích 1.215.000 đồng, chi phí đi lại trồng răng bằng xe gắn máy 500.000 đồng, thuế giá trị gia tăng 10% ngoài hóa đơn trồng răng 1.568.000 đồng, thu nhập bị mất của người bệnh trong thời gian điều trị nội trú và sau khi ra viện 250.000 đồng x 35 ngày = 8.750.000 đồng, thu nhập bị mất của người nuôi 10 ngày x 200.000 đồng=2.000.000 đồng, bồi thường bù đắp tổn thất tinh thần 12 tháng x 1.350.000 đồng = 16.200.000 đồng. Tổng cộng các khoản không có chứng từ, người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 35.652.000 đồng.

Xét yêu cầu của người bị hại, HĐXX chỉ chấp nhận các khoản thiệt hại sau: Tiền mua thuốc điều trị 02 đợt sau khi ra viện theo chỉ định của bác sĩ: 459.000 đồng, chi phí tiền thuê taxi đi Quy Nhơn chụp CT-Scanner 500.000đồng; chi phí bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe trong thời gian điều trị nội trú 60.000  đồng/ngày x 9 ngày = 540.000 đồng; chi phí đi lại từ Phù Cát đến Quy Nhơn bằng xe máy để trồng răng 5 lượt x 100.000 đồng/lượt = 500.000 đồng; thiệt hại thu nhập bị mất của người bệnh trong thời gian điều trị nội trú 250.000 đồng/ngày x 9 ngày = 2.250.000 đồng; bồi thường bù đắp tổn thất tinh thần 1.300.000 đồng x 2 tháng = 2.600.000 đồng. Tổng cộng: 6.399.000 đồng.

Với mức độ thương tích theo hồ sơ bệnh án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được thì trong thời gian điều trị nội trú người bị hại có thể tự đi lại để chăm sóc bản thân mà không cần thiết phải có người chăm sóc. Sau khi ra viện, người bị hại có thể sinh hoạt, lao động bình thường, mức độ tổn thất tinh thần cũng không lớn. Do đó, ngoài các khoản thiệt hại đã được HĐXX chấp nhận thì các khoản kê khai trong bảng kê ngày 13/12/2017 là những chi phí không hợp lý và không có căn cứ pháp luật nên HĐXX không chấp nhận.

[5.1.3] Như vậy, buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh Trần Hà Minh V tổng cộng các khoản có chứng từ và không có chứng từ là:23.406.780  đồng (17.007.780 đồng + 6.399.000đồng). Bị cáo và anh H đã bồi thường trước 9.500.000 đồng nên buộc bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 13.906.780 đồng.

[5.2] Về xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra tạm giữ 01 gậy làm bằng kim loại inox màu trắng, gồm 03 khúc gắn liền nhau; khi kéo ra dài 66cm, khi thu lại dài 25cm; đường kính đầu to nhất 2,5cm, đường kính đầu nhỏ nhất1,5cm; trên tay cầm  có miếng lót cao su màu đen. Đây là vật chứng bị cáo dùng để gây thương tích cho anh V nên cần phải tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự - 2015 (BLTTHS – 2015).

[6] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của BLTTHS - 2015, Điều 23, 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa XIV, bị cáo Nguyễn Xuân Ph phải chịu án phí HSST và án phí DSST.

[7] Trong vụ án này, ngoài bị cáo Nguyễn Xuân Ph còn có các đối tượng Trần Văn H, Võ Thanh V, Nguyễn Văn D, Lê Sơn V cùng nhau đến nhà người bị hại với mục đích hỏi tìm chìa khóa xe gắn máy cho Trần Văn H, không có sự bàn bạc, rủ rê đánh người bị hại. Riêng Trần Văn H đã có hành vi dùng tay đánh vào mặt người bị hại nhưng không gây nên thương tích. Vì vậy, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng này với vai trò đồng phạm với bị cáo Ph là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân Ph phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

[2] Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 104, điểm b, h, p khoản 1 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự - 1999.

[3] Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân Ph 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

[4] Về trách nhiệm dân sự và các biện pháp tư pháp khác:

[4.1] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Áp dụng các Điều 584, 585, 586, 590 của Bộ luật dân sự 2015.

- Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Ph phải có phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Trần Hà Minh V 23.406.780 đồng, được khấu trừ 2.000.000 đồng bị cáo đã bồi thường trước và 7.500.000 đồng do anh Trần Văn H đã tự nguyện bồi thường, nên buộc bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 13.906.780 đồng. (Mười ba triệu chín trăm lẻ sáu nghìn bảy trăm tám chục đồng)

[4.2] Về quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự:

- Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo Nguyễn Xuân Ph không thi hành hoặc thi hành chưa đầy đủ số tiền trên thì bị cáo Ph còn phải trả tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất 10%/năm, tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

- Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyệnthi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[4.3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của BLTTHS – 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 gậy làm bằng kim loại inox màu trắng, gồm 03 khúc gắn liền nhau (Có đặc điểm mô tả theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/3/2018) hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Cát.

[5] Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS 2015, Điều 23, 26, 27Nghị  quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa XIV

Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Ph phải nộp án phí 200.000 đồng án phí HSST và 695.000 đồng án phí DSST.

[6] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Văn H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HSST ngày 04/05/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:09/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cát - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về