Bản án 09/2017/HNGĐ-ST ngày 02/08/2017 về tranh chấp yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IA GRAI, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 09/2017/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2017 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 02 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 22/2017/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2017 về “Yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2017/QĐXXST- HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T; sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện G, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Đình C; sinh năm 1958; địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 10 tháng 01 năm 2017, Bản tự khai ngày 02 tháng 3 năm 2017, Biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 07 tháng 6 năm 2017, Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 07 tháng 6 năm 2017 và lời khai tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đình C có đăng ký kết hôn vào năm 1983 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Đ, tỉnh Nghệ An, việc kết hôn của ông bà là hoàn toàn tự nguyện và không bị ai ép buộc. Trong cuộc sống hôn nhân giữa bà T và ông C qua 30 năm luôn xảy ra xung đột, mâu thuẫn, hay cãi nhau nguyên nhân do ông bà bất đồng quan điểm sống, ông C thường xuyên xúc phạm và đánh đập bà T, có lần ông C đánh bà T gãy chân, lần gần đây nhất ông C đánh bà T phải đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai. Nay bà T nhận thấy không còn tình cảm với ông C nữa, không thể chung sống với nhau được nữa. Vì vậy, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông C.

* Về con chung: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đình C có 04 con chung là cháu Nguyễn Đình V sinh ngày 26 tháng 10 năm 1989, cháu Nguyễn Đình H sinh ngày 01 tháng 8 năm 1984, cháu Nguyễn Đình C sinh ngày 15 tháng 10 năm 1986 và cháu Nguyễn Thị Huyền T sinh ngày 30 tháng 10 năm 2003. Ly hôn, đối với cháu V, cháu H và cháu C đã thành niên bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết, đối với cháu T chưa thành niên thì bà T yêu cầu được nuôi dưỡng và bà T yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con 1.500.000 đồng/tháng.

* Về tài sản chung và nghĩa vụ thanh toán chung: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đình C tự thỏa thuận, không yêu cầuTòa án giải quyết.

Trong quá trình tiến hành tố tụng, Toà án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự cho ông Nguyễn Đình C nhưng ông C không đến Toà án làm việc, vì vậy không có lời khai và yêu cầu của C trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên toà.

Trong Biên bản lấy ý kiến của con chưa thành niên đối với cháu Nguyễn Thị Huyền T ngày 07 tháng 6 năm 2017, cháu Trang trình bày:

Cháu T có nguyện vọng được sống chung với mẹ cháu là bà Nguyễn Thị T vì cháu thích ở với mẹ cháu hơn và mẹ cháu chăm sóc cháu tốt hơn. Cháu T hiện nay học hết lớp 8, qua hè lên lớp 9, chi phí học phí nộp trên trường của cháu là gần 2.000.000 đồng/năm, ngoài ra cháu còn đi học thêm học phí hết khoảng 700.000 đồng/tháng.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

- Về việc tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng: Đảm bảo theo quy định của pháp luật.

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng, bị đơn thực hiện chưa đúng quy định của pháp luật.

- Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không.

- Về nội dung đề nghị: Căn cứ Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị T đối với ông Nguyễn Đình C.

+ Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T, giao cháu Nguyễn Thị Huyền T cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

+ Về cấp dưỡng: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T, buộc ông Nguyễn Đình C phải cấp dưỡng nuôi con chung là 1.500.000 đồng/tháng.

Các tài liệu, chứng cứ trong vụ án gồm có: Đơn khởi kiện; Sổ hộ khẩu Nguyễn Đình C; Chứng minh nhân dân Nguyễn Thị T - Nguyễn Đình C; Giấy khai sinh cháu Nguyễn Đình V– Nguyễn Đình H – Nguyễn Thị Huyền T – Nguyễn Đình C; Giấy chứng nhận kết hôn; Bản tự khai, Biên bản lấy lời khai của Nguyễn Thị T; Biên bản xác minh ngày 06/3/2017; Biên bản lấy ý kiến của con chưa thành niên Nguyễn Thị Huyền T.

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đình C có đăng ký kết hôn vào năm 1983 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Đ, tỉnh Nghệ An.

Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đình C có 04 con chung là cháu Nguyễn Đình V sinh ngày 26 tháng 10 năm 1989, cháu Nguyễn Đình H sinh ngày 01 tháng 8 năm 1984, cháu Nguyễn Đình C sinh ngày 15 tháng 10 năm 1986 và cháu Nguyễn Thị Huyền T sinh ngày 30 tháng 10 năm 2003.

Các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Không.

Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 01 năm 2017 của bà Nguyễn Thị T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông Nguyễn Đình C có hình thức và nội dung đúng theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông C hiện cư trú tại Thôn A, xã T, huyện G, tỉnh Gia Lai nên việc thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện của bà T của Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đình C có đăng ký kết hôn vào năm 1983 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Trong cuộc sống hôn nhân của ông bà không được hạnh phúc, thường xuyên phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến hay cãi nhau và xung đột. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do ông bà bất đồng quan điểm sống, ông C có đánh bà T. Nay bà T nhận thấy cuộc sống hôn nhân của ông bà lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông C.

Xét thấy, bà T và ông C kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp.Hội đồng xét xử thấy rằng hạnh phúc gia đình chỉ được xây dựng trên cơ sở tự nguyện giữa các bên, các

bên đương sự phải có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững. Tuy nhiên, cuộc sống hôn nhân của bà T và ông C hiện nay không có hạnh phúc, không ai quan tâm gì đến nhau, trong cuộc sống hôn nhân xảy ra nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống dẫn đến việc ông C đánh đập bà T cho thấy cuộc sống hôn nhân của bà T và ông C đã đến mức trầm trọng. Quá trình chung sống giữa bà T và ông C đã phát sinh nhiều mâu thuẫn sâu sắc, tình cảm rạn nứt mà không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, trong cuộc sống vợ chồng có dấu hiệu của bạo lực gia đình. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy có căn cứ để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T.

 [3] Về con chung: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đình C có 04 con chung là cháu Nguyễn Đình V sinh ngày 26 tháng 10 năm 1989, cháu Nguyễn Đình H sinh ngày 01 tháng 8 năm 1984, cháu Nguyễn Đình C sinh ngày 15 tháng 10 năm 1986 và cháu Nguyễn Thị Huyền T sinh ngày 30 tháng 10 năm 2003.

Đối với cháu V, cháu H và cháu C đều đã thành niên nên bà T không yêu cầu giải quyết là phù hợp.

Đối với cháu T thì bà T yêu cầu được nuôi dưỡng và bà T yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con 1.500.000 đồng/tháng.

Xét về điều kiện nuôi con thì bà T và ông C đều đảm bảo, tuy nhiên cháu T có nguyện vọng được sống chung với bà T, xét thấy nguyện vọng của cháu Trang là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử sẽ giao cháu Trang cho bà T nuôi dưỡng.

Về mức cấp dưỡng nuôi con, bà T trình bày về những nhu cầu thiết yếu của cháu Trang gồm có tiền học phí, vật dụng phục vụ sinh hoạt cá nhân và tiền để trang trải việc ăn uống hàng ngày cho cháu một tháng hết khoảng 3.000.000 đồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng việc buộc ông C phải cấp dưỡng cho cháu T 1.500.000 đồng/tháng là phù hợp.

 [4] Do bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết về việc chia tài sản chung và nghĩa vụ thanh toán chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5] Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Ông C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Danh mục án phí, lệ phí tòa án Ban hành kèm theo Nghị quyết.

- Áp dụng Điều 357 của Bộ luật Dân sự; Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 và Điều 119 của Luật hôn nhân và gia đình.

1. Về hôn nhân xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Đình C.

2. Về con chung xử:

Giao con chung là cháu Nguyễn Thị Huyền T sinh ngày 30 tháng 10 năm 2003 cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Buộc ông Nguyễn Đình C phải cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Thị Huyền T, mức cấp dưỡng là 1.500.000 đồng/tháng (Một triệu, năm trăm nghìn đồng), thời hạn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được tính từ ngày 02 tháng 8 năm 2017 cho đến khi cháu Nguyễn Thị Huyền T đã thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Vì lợi ích của con, bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đình C đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Đình C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí:

Buộc bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ trong số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp trước đây theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí tòa án số 0000256 ngày 02 tháng 3 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. Bà T đã nộp đủ. Buộc ông Nguyễn Đình C phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,  người phải thi hành án dân sựcó quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2017/HNGĐ-ST ngày 02/08/2017 về tranh chấp yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/08/2017
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về